Loan Kim Homestay
  • Home
  • Room
  • Visit Hue
  • About Us
  • Contact Us
  • English
    • Vietnamese

About blog

about
Lorem Ipsum is simply dummy text of the printing and typesetting industry. Lorem Ipsum has been the industry’s standard dummy text ever since the 1500s,

Categories

  • Blog (31)
  • Uncategorized (1)

Popular Tag

Huế hội vật làng sình điện hòn chén

Archives

  • June 2021 (6)
  • May 2021 (12)
  • April 2021 (11)
  • March 2021 (3)

Monthly Archives: May 2021

Đến Huế, xì xụp thưởng thức món bánh canh cá lóc hấp dẫn, đầy bổ dưỡng

Post By: Loan Kim May 29, 2021 0 Comment(s) Huế

Xứ Huế vốn được ví như “thiên đường của bánh canh”, nào là bánh canh Nam Phổ, bánh canh cua rời, bánh canh bột gạo… Và trong số đó phải kể đến bánh canh cá lóc làm nên đặc sản thương hiệu của cả một vùng đất Cố đô. Tất cả dù chế biến từ những nguyên liệu mộc mạc, đơn sơ nhưng dưới bàn tay tài hoa con người nơi đây đã chế biến thành món ăn hấp dẫn, đầy bổ dưỡng.

Đối với nhiều người dân xứ Huế, đã nói đến bánh canh cá lóc thì phải nhắc đến Thủy Dương. Có người nói, Thủy Dương chính là nơi xuất xứ của món ăn dân dã này. Thực hư chưa rõ, chỉ biết rằng nơi đây có hàng chục quán bánh canh san sát nhau dọc hai bên đường.

Bánh canh cá lóc phải rất kì công mới chế biến được món ăn đúng vị. Bột gạo và cá lóc là hai nguyên liệu chính không thể thiếu đối với loại bánh canh này. 

Để chế biến nên sợi bánh canh, trước tiên gạo ngâm với nước rồi mới xay, sau đó sú bột và giã đều trong cối. Người ta giã bột phải thật đều tay, giã cho tới lúc “chín”, tức là bột chặt, dai, quện đều vào nhau mà không dính tay để khi nấu sợi bánh canh vẫn trong, không nhão làm món ăn trở nên ngán. Ngày nay, việc giã tay đã được thay bằng xay bột và nhào bột bằng máy để tiết kiệm thời gian. Chính vì điều này làm cọng bánh canh ở nhiều nơi không còn nguyên vị, thường tan vào nước quánh đặc, hay nhão nhoét không ngon.

Cá lóc để nấu bánh canh phải là loại cá lóc còn tươi, sau đó được hấp vừa chín tới, săn từng thớ thịt. Sau đó gỡ riêng phần thịt cá, lòng cá và xương, đầu. Xương và đầu cá thì được giã nhỏ rồi lọc lấy nước dùng làm nước nấu cùng với nước luộc cá. Đây cũng chính là bí quyết giúp nước cháo luôn ngon ngọt tự nhiên. Phần lòng cá lóc là “mồi nhậu” được bán riêng cho những người đặt hàng trước để cùng nhăm nhi với tô bánh canh thơm ngọt. Còn phần thịt cá sau khi gỡ xương thì ướp tiêu, mắm, ớt, hành,… om lên cho thơm.

Tất cả đều được sơ chế riêng: nước dùng có nồi riêng, bột được luộc riêng, cũng như cá được um riêng. Sau đó mới cho vào tô từng thứ một. Tùy theo sở thích của khách mà chủ quán sẽ gia giảm lượng bột và cá sao cho phù hợp nhất.

Khi khách gọi, chủ quán một tay cầm bột đã được cán mỏng trên từng ống nhựa, một tay cầm dao, thao tác thoăn thoắt như máy. Những sợi bột nhanh chóng rơi thẳng vào nồi nước đang sôi để luộc chín. Sau khi bánh chín thì đổ vào tô, gắp thịt cá lóc vào, múc nước dùng rưới lên bên trên.

Món này được ăn nóng, vừa thổi vừa ăn mới đúng điệu. Bột được luộc chín vừa phải nên khi ăn dai dai rất tuyệt, mà lại không hề ngán chút nào. Thịt cá cũng không hề bị nát và tanh. Vị ngọt tự nhiên của cá chính là điểm cộng cho món ăn này. 

Khi ăn có thể cho thêm ớt bột loại cay, hành thái nhỏ, hạt tiêu cho tròn vị. Tuỳ khẩu vị mà tiêu ớt được gia giảm tuỳ thích, nhưng tuyệt đối phải thưởng thức lúc tô bánh canh nghi ngúc khói, vì để nguội ăn dễ tanh.

Từ một món ăn dân dã, bánh canh cá lóc đã chinh phục được khẩu vị của nhiều thực khách và tạo được phong vị riêng; dù không phải cao lương nhưng vẫn chứa trong đó đầy mỹ vị của ẩm thực xứ Huế làm nức lòng khách gần xa. Nếu có dịp đặt chân đến mảnh đất Huế thân thương, bạn hãy thử qua hương vị đầy tuyệt vời của món ăn này nhé!

Read More

Món Bánh Nậm mang đầy đủ hương sắc của Cố đô

Post By: Loan Kim May 29, 2021 0 Comment(s) Huế

Từ lâu, cố đô Huế đã được mệnh danh là “kinh đô ẩm thực” bởi vô vàn những món ăn thơm ngon nức tiếng. Bên cạnh những món ăn làm nên thương hiệu Huế như: bún bò, cơm hến,… thì không thể không nhắc đến món Bánh Nậm dân dã mà tinh tế.

Đối với mỗi người dân Huế, Bánh Nậm là một món ăn rất quen thuộc và được ưa thích. Người dân nơi đây còn dùng bánh nậm trong những dịp cúng, giỗ.

Nguồn gốc tên “Bánh Nậm” đến bây giờ vẫn còn là dấu chấm hỏi chưa lời giải đáp. Thậm chí, những người bán bánh nậm lâu đời hơn 50 năm tại Huế cũng không thể giải nghĩa được. Chỉ biết rằng, bánh nậm đã ăn sâu vào tiềm thức của họ qua câu hát ru cách đây hơn nửa thế kỷ: “Chiều chiều bánh nậm lên dinh” (cách nói của người Huế chỉ việc đem bánh nậm lên kinh thành buôn bán).

Bánh Nậm có nguồn gốc tại làng Nam Phổ (nay thuộc xã Phú Thượng, huyện Phú Vang). Những người phụ nữ lúc bấy giờ đã dùng bột gạo, tôm, tép giã nhuyễn để làm nên chiếc bánh. Sau đó, món ăn này ngày càng phổ biến ở làng Nam Phổ. Người dân làm bánh và mang đi giao thương từ khắp các đường phố cho đến kinh thành Huế. Bánh Nậm từ đó đã trở thành món ăn yêu thích của mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi ở Cố đô.

Chiếc Bánh Nậm dày khoảng 1cm với phần vỏ bánh được làm từ bột gạo; phần nhân gồm tôm, thịt; và không thể thiếu lá chuối bọc ngoài. Linh hồn của món Bánh Nậm đó là phần bột gạo được chế biến công phu và cầu kỳ. Bột gạo phải chọn loại 1 xay từ gạo nguyên chất. Sau khi hòa tan bột gạo, ít bột năng với nước thì cho thêm bột ngọt, muối, dầu ăn rồi đun trên lửa nhỏ. Trong quá trình nấu bột, người làm bánh luôn phải khuấy thật đều tay để bột bánh không bị vón cục, đọng ở đáy nồi hoặc khét. Khi bột đã hơi đặc lại tức là đủ độ đàn hồi (đặc vừa phải, không chảy cũng không cứng) để làm bánh.

Công đoạn làm nhân bánh cũng đòi hỏi rất nhiều sự tỉ mỉ. Ngay từ khâu lựa chọn nguyên liệu, tôm được chọn để làm nhân bánh phải được lột sạch vỏ và băm nhuyễn, thịt ba chỉ cũng được băm nhuyễn rồi được xào chung với nhau. Hỗn hợp tôm, thịt này sẽ được cho thêm chút nước mắm, hành lá xắt nhỏ, hạt tiêu để thêm đậm đà và bắt mắt hơn.

Trong khoảng thời gian đợi nhân và vỏ bánh nguội bớt thì người làm bánh sẽ chuẩn bị lá chuối để gói bánh. Lá chuối đã được phơi qua nắng nhẹ hoặc nhúng qua nước sôi để có độ dai. Lá chuối sau khi lau sạch sẽ xếp theo kiểu một lá nằm dọc phía dưới, rồi thêm một lá ngang ở phía trên. Sau đó, người ta sẽ thoa dầu ăn để chống dính lên mặt lá rồi rải một lớp bột mỏng theo hình chữ nhật dày khoảng 1cm vào giữa. Phần nhân tôm thịt cùng ít hành lá sẽ được rải lên mặt bánh theo chiều dọc. Cuối cùng, hai mép lá sẽ được gấp lại, bẻ hai đầu rồi dùng tay vuốt đều sao cho tạo thành hình chữ nhật thật vuông vức đẹp mắt. 

Bánh sau khi gói xong sẽ mang hấp cách thủy trong một chiếc xửng khoảng 20 phút. Thời gian này là vừa đủ để bánh mềm, nếu hấp quá lâu thì sẽ không giữ được màu xanh của lá và bánh sẽ bị bở.

Ngoài Bánh Nậm tôm thịt thì còn có loại bánh chay làm từ tinh bột đậu xanh, đường, đậu xanh, lá dứa để dùng vào ngày rằm, mùng 1 âm lịch. Người ta sẽ trộn tinh bột đậu xanh với nước lá dứa và đường rồi đun trên lửa nhỏ, khuấy đều đến khi bột trong vắt. Nhân là đậu xanh đã nấu chín, trộn đường rồi khuấy đều lên bếp. Bánh Nậm chay khi ăn có vị ngọt, bùi của đậu xanh và thơm dịu mùi lá dứa.

Một chiếc Bánh Nậm có ngon hay không phụ thuộc phần nhiều vào nước mắm ăn kèm. Người ta sẽ cho một ít đường vào nước mắm rồi bắc lên bếp đun đến khi đường tan thì cho thêm ít nước lọc. Sau khi hỗn hợp này nguội thì sẽ pha thêm ít nước cốt chanh, tỏi băm cùng chút ớt để có vị ngọt dịu vừa phải.

Thưởng thức Bánh Nậm cũng đòi hỏi sự nghệ thuật. Người Huế thưởng thức bánh theo hai cách khác nhau. Một số người bóc bánh rồi xắp ra đĩa, có người lại để nguyên bánh trên lá chuối để hương thơm của lá lan tỏa giúp ăn ngon miệng hơn. Bóc lớp lá đến đâu, hương thơm lại dậy lên đến đấy. Từng lớp lá xanh mướt được tách ra để lộ bên trong là chiếc bánh nậm trắng ngần, ở giữa là lớp nhân mịn màng lấp loáng lớp dầu. Màu xanh của lá, màu trắng của bột bánh, màu gạch của nhân tôm thịt tạo nên sự hài hòa về màu sắc thật mãn nhãn.

Khi thưởng thức, thực khách sẽ rưới một ít nước mắm lên mặt bánh rồi dùng thìa lóc bánh ra. Bạn hãy chầm chậm cảm nhận bánh mềm nhưng không hề bở, hòa quyện với vị béo của thịt tôm, vị thơm của hành lá, mùi cay nồng của tiêu cùng hương thơm phảng phát của lá khiến thực khách nhớ mãi không quên.

Khi đến Huế, bạn sẽ rất dễ dàng để tìm thấy những chiếc bánh Nậm, bởi loại bánh này có mặt ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, để thưởng thức bánh nậm không cần phải đến nhà hàng sang trọng hay phải ăn trên mâm cao cổ đầy mới có hương vị đặc biệt. Món ăn dân dã mà tinh tế này của xứ Huế có thể tìm thấy ở nhiều gánh hàng rong, hương vị cũng rất tuyệt vời và thân thuộc.

Nếu ai đến với Huế thương và thưởng thức bánh của các O các Mệ hàng rong chắc chắn sẽ hiểu, rổ bánh đầy ấp hương vị, đủ màu sắc không chỉ riêng bánh nậm mà còn nhiều loại bánh khác nữa, tất cả như một tác phẩm nghệ thuật.

Nhiều người Huế đến với miền đất khác sinh sống sẽ mang theo hương vị quê hương của mình. Vì thế, bạn có thể tìm thấy bánh nậm ở một số tỉnh, thành phố khác. Nhưng để có thể thưởng thức được món bánh nậm mang đầy đủ hương sắc của Cố đô thì chỉ có thể đến tận đây để cảm nhận được vị tinh tế trong từng chiếc bánh./.

Read More

Cảm nhận sự tinh tế của ẩm thực Cố đô Huế qua món Bánh Bèo

Post By: Loan Kim May 24, 2021 0 Comment(s) Huế

Bánh Bèo là một món ăn dân dã, bình dị của người dân xứ Huế. Chiếc bánh bé xíu dẻo thơm hương bột gạo, vị ngọt của tôm hòa trong hương vị nước mắm cay làm người ăn phải xuýt xoa khi thưởng thức.

Chẳng ai biết được rằng Bánh Bèo có từ khi nào với xuất xứ ra sao. Nhưng có lẽ, nó đã có mặt từ rất lâu trên mảnh đất Cố đô này. Tên gọi “Bánh Bèo” có thể xuất phát từ hình dạng trông giống như lá bèo của nó (cây bèo có lá có màu xanh lục tươi với các mép lá gợn sóng và nó thường xuất hiện trên mặt ao, sông). Cũng có một giải thích khác rằng vì những chiếc bánh nhỏ xinh thật bình dị, dân dã nên người ta đặt cho nó cái tên “bèo” có nghĩa là đơn giản, dân dã.

Bởi vậy mà, khi có dịp đến Huế, bạn sẽ cảm nhận được sự gắn bó của Bánh Bèo với đời sống hằng ngày của người dân ở mảnh đất này. Đây là món ăn sáng, ăn xế và ăn vặt rất quen thuộc của người Huế từ người già đến trẻ nhỏ. Ngoài các hàng quán mọc lên khắp các tuyến đường ở Huế và bạn cũng dễ dàng bắt gặp những người bán hàng rong gánh trên vai chiếc thúng nhỏ. Họ đi khắp các tuyến phố, vào cả trong các ngõ ngách để rao bán món Bánh bèo mang đậm hương vị Huế.

Được chế biến từ bột gạo, khuôn bánh là những chiếc chén nhỏ xíu, ăn kèm với nước mắm ngọt, món ăn đơn giản là vậy nhưng ẩn chứa bên trong là một quá trình chế biến tương đối công phu.

Nguyên liệu chính của Bánh Bèo là bột gạo. Bột sau khi được ngâm từ 4 – 6 giờ (thời gian đủ để bánh dai và không bị chua) thì sẽ được hòa cùng nước lạnh rồi mang đi khuấy từ từ một cách đều tay. Tiếp đến, người ta cho nước sôi vào và khuấy cho đến khi hỗn hợp hòa quyện vào nhau. Phần nước lắng màu trắng trên mặt bột sẽ được bỏ đi trước khi mang hấp. 

Bột sẽ được cho vào các chén nhỏ với lượng vừa đủ để chiếc bánh không quá dày. Các chén Bánh Bèo sẽ được đưa vào nồi hấp cách thủy khoảng 7-8 phút cho đến khi bánh chuyển sang màu trắng đục.

Nhân Bánh Bèo gồm các nguyên liệu là tôm chấy (hỗn hợp tôm giã nhuyễn kèm gia vị rim khô). Loại tôm được chọn phải là tôm còn tươi, sống ở đầm. Sau khi làm sạch tôm, lột vỏ, chẻ sống lưng lấy chỉ thì người ta sẽ tiến hành luộc tôm. Sau khi tôm chín, đổ tôm vào máy xay nhuyễn. Hỗn hợp này sẽ mang chiên trên chảo dầu ăn đã được phi thơm tỏi. Người làm bánh sẽ thêm chút muối kèm một số gia vị như tiêu, hành… rồi đảo đều tay đến khi chín sẽ hạ lửa đun riu riu đến khi nào tôm hơi khô thì tắt bếp.

Sau khi làm nhân xong, người ta sẽ rải nhân tôm chấy cùng với ít hành phi, tóp mỡ hoặc bánh mì chiên lên trên mặt bánh bèo rồi xếp từng chén bánh nhỏ ra chiếc mẹt tre. Lúc này, ấn tượng đầu tiên của bạn khi nhìn thấy món bánh này là một màu sắc rất bắt mắt hòa quyện giữa màu trắng ngần của bột bánh, màu cam của tôm chấy với màu vàng nâu của hành phi, tóp mỡ hoặc bánh mì chiên. Chưa kể đến hương vị như thế nào, nhưng về phần thị giác thì chắc chắn đã làm xiêu lòng thực khách ngay rồi.

Làm Bánh Bèo đã cầu kỳ, công đoạn làm nước mắm chấm lại càng đòi hỏi sự tỉ mỉ không kém. Bánh Bèo ngon hay không phụ thuộc rất nhiều vào nước mắm ăn kèm. Vỏ tôm khi làm nhân sẽ được giữ lại để luộc lấy nước, thêm chút đường, muối và chút nước mắm. Cái khéo của người làm là làm sao cho nước mắm có vị thanh thanh vừa đủ, không quá ngọt cũng không quá mặn. Khi ăn, người ta chỉ xắt một ít ớt xanh vào để kích thích vị giác.

Bánh Bèo hấp dẫn thực khách từ tên bánh đến cách thưởng thức. Ăn Bánh Bèo phải ăn từ từ mới cảm nhận được cái thơm ngon của bánh. Vị ngọt của tôm chấy, cái đậm đà cay nồng của nước mắm hòa quyện với những chiếc bánh thơm ngon khiến bạn đã một lần thưởng thức không thể nào quên. Bánh thường được ăn nóng ngay sau khi hấp. Và người Huế thường không dùng đũa, muỗng mà mà sẽ dùng que tre vót mỏng để để lách vào viền bánh và xắn rời miếng rồi xiên bánh, chấm vào nước mắm cay ngọt. Vì thế, dân gian Huế có cụm từ “dao tre, chén đá” để chỉ cách ăn bánh Bèo đúng chất Huế.

Thưởng thức món bánh ngay từ miếng đầu tiên, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt của tôm chấy, vị bùi của bột bánh hòa quyện cùng hương vị cay nồng đậm đà của nước mắm. Hương vị tuyệt vời này đã khiến nhiều thực khách ăn từ chén bánh này đến chén bánh khác mà không cảm thấy bị ngán.

Là một trong những món nổi tiếng của ẩm thực xứ Huế, Bánh Bèo dần trở thành nét sinh hoạt văn hóa đầy thi vị. Ai đến Huế mà chưa tìm ăn Bánh Bèo, khi về sẽ thiếu đi một chuyện để nhớ, để thương…

Read More

Bánh bột lọc, món ăn tinh tế của ẩm thực Cố đô

Post By: Loan Kim May 24, 2021 0 Comment(s) Huế

Từ lâu, bánh bột lọc đã là một món ăn vặt rất phổ biến ở Huế. Qua bao thăng trầm của thời gian, những người con của Huế đã đi mưu sinh, làm ăn tại nhiều vùng, miền của đất nước; họ cũng đã mang theo nghề làm và kinh doanh món bánh này. Dẫu vậy, dù ở bất cứ nơi nào thì chất liệu, hương vị và sắc màu của loại bánh đặc trưng này của xứ Huế vẫn vẹn nguyên, không đổi thay.

Với người Huế, bánh bột lọc vốn đơn giản chỉ là món một ăn vặt hay chỉ là một thức quà. Nhưng nhờ cách chế biến riêng cùng với sự khéo léo của bàn tay những người phụ nữ mà từ lâu bánh bột lọc đã trở thành một cái tên tồn tại song song với những thương hiệu đặc sản Huế khác. Món ăn này từng được giới thiệu là một trong 30 món bánh ngon nhất thế giới, có khả năng “chinh phục” những thực khách khó tính nhất. Như vậy cũng đủ thấy sức hấp dẫn của nó đến nhường nào.

Bánh bột lọc có hai loại: bánh bột lọc được gói bằng lá chuối và bánh bột lọc trần (không gói). Nếu ví bánh bột lọc trần như cô gái thành thị mang vẻ đẹp khỏe khoắn, hiện đại, luôn cởi mở, dễ gần thì ngược lại, bánh bột lọc gói lại được xem như cô gái Huế luôn e ấp, dịu dàng trong tà áo dài và nón lá duyên dáng. Do đó, không ít vị khách du lịch đến Huế, sau khi rong ruổi khắp các địa danh, các con phố hay thả hồn bên bờ sông Hương thơ mộng đều không quên tìm đến những hàng quán, thậm chí là ngóc ngách để thưởng thức cho bằng được món bánh dân dã này.

Bánh bột lọc bình dị cả về mặt nguyên liệu lẫn cách chế biến nhưng nó lại rất hấp dẫn trong mắt thực khách. Để làm nên được những chiếc bánh vừa trong và dẻo, vừa béo ngậy và thơm thì đòi hỏi người làm phải biết cách. Nguyên liệu chính cần có gồm bột năng, thịt ba chỉ, tôm.

Bánh bột lọc nói chung gồm 2 phần là vỏ bánh và phần nhân. Trước khi bắt đầu làm phần vỏ bánh, người Huế thường làm phần nhân trước. Thịt ba chỉ được cắt nhỏ, tôm tươi làm sạch, cắt bỏ phần đầu và đuôi rồi mang đi rim khô.

Sau khi xong phần nhân bánh sẽ tiến hành làm vỏ bánh. Với loại bánh bột lọc trần, phần vỏ bánh sẽ được nhào kỹ từ bột năng với nước ấm rồi nặn thành viên lớn và đem luộc chín. Sau đó, người ta lại đem những viên bột chín nhào cùng bột năng sống để được các khối bột bánh. Bánh được nặn thành những miếng tròn với một chút nhân rồi ép lại thành hình bán nguyệt nhỏ. Để chần bánh, người ta đem bỏ bánh vào nước sôi luộc khoảng 15-20 phút rồi vớt bánh ra, nhúng qua nước sôi để nguội và xóc bánh với dầu phi hành lá. Sau đó bỏ bánh ra tô, rải tóp mỡ, hành phi và ớt tươi đã được thái lát.

Còn với bánh bột lọc gói, vỏ bánh được chế biến từ bột năng, muối, đường và dầu ăn. Hỗn hợp bột này phải được trộn thật đều rồi cho lên bếp đun đến khi đặc quánh thì nhấc xuống, quấy đều để bột mịn và nguội dần sau đó đặt kèm phần nhân và gói ghém lại tỉ mỉ bằng lá chuối để bánh giữ được hương vị thơm ngon khi hấp. 

Việc tạo hình và gói những chiếc bánh cũng khá quan trọng. Lá phải là lá chuối xanh để tạo mùi thơm đặc biệt. Lá rửa sạch, xé ra thành từng miếng, để ráo rồi hơ lửa là quét xíu dầu đậu phộng. Sau đó múc từng phần nhỏ bột đặt vào giữa lá, dùng tay dần mỏng bột, cho phần nhân tôm và thịt vào giữa, dần bột nối các góc và mép bột lại, gấp hai mép lá chồng lên nhau. Cuối cùng nhẹ nhàng xếp những chiếc bánh nhỏ xinh đó vào nồi hấp cách thủy, chừng 15 phút là bánh chín. Chiếc bánh mang vị mát thanh thanh của bột lọc, thơm ngọt của tôm, thịt thì đố ai mà cưỡng lại được.

Những chiếc bánh khi bóc phải có độ trong vừa phải, không bị đọng bột mới là đạt yêu cầu. Ngoài ra, bánh phải vẫn giữ được độ dai dai của bột lọc cùng vị mặn mà của nhân tôm. Cách làm bánh tuy đơn giản nhưng mà rất ngon, mang đậm hương vị của ẩm thực cố đô Huế!

Bánh bột lọc nho nhỏ, trong suốt phô bày con tôm và lát thịt đỏ au ăn với trái ớt xanh, cay vô kể nhưng cứ bắt người ta phải nhớ. Ăn bánh bột lọc có nhiều cái thú dẫn dắt từ từ khác nhau. Đầu tiên là cái thú bóc bánh. Món này vốn gói lá như nem, chả… nên chỗ bán đúng kiểu thường để luôn lá dọn ra để khách vừa ăn vừa tự tay bóc từng chiếc một.

Bóc bánh xong, tay cầm luôn miếng bột lọc chấm thẳng vào bát nước chấm (pha từ nước mắm mặn có cà rốt muối chua và ớt bằm hoặc nước mắm chua ngọt, được pha hơi loãng tùy từng khẩu vị) rồi cho vào miệng. Cho hết cả miếng vào, húp thêm ngụm nhỏ mắm cay nữa, nhai giòn giòn ngon ngon, ăn mãi không ngán vì bột lọc không sợ béo như bột bánh bèo, bánh nậm hay bánh đúc. Nhân tôm mằn mặn giòn giòn ăn cũng không nhanh chán như nhân đậu xanh của bánh ít trần.

Bánh bột lọc ăn lúc nào trong năm cũng ngon và hợp song có lẽ thưởng thức vào khi tiết trời lành lạnh thì tuyệt nhất bởi lẽ vị cay nồng của bát nước chấm cũng ít nhiều xua tan bớt cảm giác tê tái của tiết trời…

Đi du lịch ở bất cứ vùng miền nào, khi khám phá ẩm thực, du khách đều cảm nhận được những điểm thi vị rất riêng. Đến Huế cũng thế, thưởng thức bánh bột lọc ở các quán ăn bình dân hay nhà hàng sang trọng, thì bánh bột lọc đều làm cho thực khách cảm nhận được đủ hương vị tuyệt vời của nó – hương vị giản dị nhưng đậm chất Huế không thể nhầm lẫn với các nơi khác./.

Read More

Tôm chua - hương vị nồng đậm giữa nền ẩm thực thanh tao chốn Cố đô Huế

Post By: Loan Kim May 24, 2021 0 Comment(s) Huế

Giữa nền ẩm thực thanh tao chốn Cố đô Huế, tôm chua nổi lên với hương vị nồng đậm. Cái vị chua thanh của tôm, cay nồng của các loại gia vị làm cho ai đã một lần thưởng thức thì không thể quên được hương vị mộc mạc của món ăn.

Tôm chua mang đủ sự tinh tế của người Huế trong cách chế biến. Để làm ra được món này thật ngon, thật thơm, người Huế phải chuẩn bị nguyên liệu thật kĩ. Tôm phải là tôm tươi bắt ở vùng nước ngọt như sông, suối, đồng ruộng (không sử dụng loại tôm biển). Đặc biệt, tôm không quá to, không quá nhỏ, sàn sàn nhau để được ngấm đều gia vị và làm cho hũ tôm thêm đẹp. Các gia vị đi kèm gồm tôm, xôi, măng vòi, tỏi, ớt, riềng, nước mắm ngon hoặc muối…

Tôm sau khi bắt về cắt đầu, râu, bỏ lấy phần đen trên lưng tôm, ngâm trong nước phèn chua chừng vài phút sau đó rửa sạch đem ngâm tiếp với rượu trắng cho đến khi hết mùi rượu, cuối cùng là vớt ra để ráo. Lúc này tôm sẽ sạch và giòn.

Trộn đều tôm, xôi, măng vòi, tỏi, ớt, riềng, nước mắm ngon hoặc muối, cho vào vại sành. Ủ ở nơi có nắng ấm khoảng 3 ngày, sau đó đưa vào nơi khô ráo và mát. Quá trình ủ tôm kéo dài từ 5 đến 7 ngày. Cầu kỳ hơn, người ta có thể chôn xuống đất để giữ nhiệt độ ổn định cho quá trình lên men, giúp tôm càng ngọt và thơm.

Tôm chua chín sau độ 5 hoặc 7 ngày. Lúc này giở ra tôm đã chín có màu đỏ óng, hỗn hợp sền sệt có màu cam nhẹ tươi tắn. Đặc biệt, tôm chua có mùi rất thơm. Tôm chua lúc này có sự tổng hòa của sắc màu trắng của xôi, măng, riềng tỏi, màu đỏ của tôm, ớt… và đủ các vị: ngọt, béo, bùi, cay, chua, đắng… Đó còn là sự tổng hòa của âm và dương, cái mát lành của tôm hòa trong cái cay nồng của gia vị, tất cả thật hài hòa và quyến rũ.

Mắm tôm chua thường được ăn kèm với cơm trắng. Nổi tiếng và ngon miệng phải kể đến mắm tôm chua ăn kèm với thịt luộc. Ăn cơm trắng cùng thịt luộc chấm mắm tôm chua hay thịt luộc cuốn cùng bánh tráng, dứa, vả, các loại rau thơm thì tuyệt vời.

Một lát dứa, một lát vả, một lát dưa chuột, một lát thịt… cuộn tròn cùng rau thơm chấm kèm mắm tôm chua thì con gì bằng. Vị chua chua cay cay của tôm hòa trong cái ngọt của thịt, vị chua của dứa, chát chát giòn giòn của quả vả… tất cả trộn lẫn vào nhau đem lại cho người ăn cảm giác thích thú và vô cùng ngon miệng. Món ăn rất thích hợp cho gia đình vừa trò chuyện vừa thưởng thức.

Xứ Huế, nơi tụ hội của tinh hoa văn hóa, truyền thống và ẩm thực. Ghé thăm mảnh đất Cố đô thơ mộng, thử thưởng thức qua cái hương vị đặc biệt của đặc sản bình dị Tôm chua và cảm nhận một chất Huế rất riêng nhé!

Read More

Đặc sản Mè Xửng ngọt thanh hương vị Cố đô

Post By: Loan Kim May 24, 2021 0 Comment(s) Huế

Từ rất lâu, Mè Xửng là một biểu tượng gắn liền với người dân xứ Cố đô Huế. Đặc sản này mang cốt cách và tâm hồn con người Huế luôn theo chân những đứa con xa xứ hàng trăm năm qua. Người Huế họ xem Mè Xửng là một trong những “bảo vật” cần được lưu giữ.

Mè Xửng – cái vị kẹo không lẫn vào đâu được ở xứ Huế. Cứ nhắc đến Huế, người ta lại dễ dàng liên tưởng đến món này. Không xa hoa, chỉ đơn giản, bình dị mà đi vào lòng người bao nhiêu năm qua. Hương thơm của mè, vị béo của đậu phộng lẫn với vị ngòn ngọt của đường, mạch nha, cắn một miếng nhấp một ngụm trà nhẹ nhàng cảm nhận chất Huế, từ lâu việc thưởng thức như thế đã đi vào đời sống của người dân xứ Huế.

Vâng, Mè Xửng là một cái tên quá đỗi quen thuộc với bao người. Một cái tên ra đời từ bao giờ cũng không ai hay biết, nhưng có lẽ quá ngon làm sửng sốt bao người nên có cái tên ấy hay có thể qua bao biến cố thăng trần của thời gian mà món Mè Xửng vẫn giữ được vị trí của mình, sừng sững đứng trong ngôi vị đặc sản ngon xứ Huế nên nười ta gọi là Mè Xửng chăng? Theo lý giải khác, sở dĩ có cái tên “Mè Xửng” là vì chúng làm từ mè, trước kia lại được đựng trong xửng, vậy nên người ta mới gọi là Mè Xửng.

Trước đây, loại kẹo này được làm hoàn toàn bằng thủ công và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mè Xửng chỉ ngon khi được làm từ những người thợ có tay nghề làm bánh kẹo lâu năm và khéo léo. Nguyên liệu chủ yếu của Mè Xửng là bột gạo, mè, đường trắng và đậu phộng. Để kẹo Mè Xửng không bị bẻ đôi thì bột gạo phải là gạo ngon được lựa chọn kỹ càng. Còn mè thì phải là loại vừng chất lượng để đảm bảo mùi thơm và thanh ngọt mang lại.

Công đoạn đầu tiên để làm kẹo Mè Xửng là nấu đường. Đun đến khi đường hòa tan ra hết, sau đó cho ít bột gạo vào rồi đảo đều tay, sao cho bột không bị vón cục. Đun đến khi bột gạo và đường hòa quyện vào với nhau, tiếp đến cho lạc (đã được giã nhỏ khoảng 1/3 đến 1/4 hạt) vào đảo tiếp. Sau đó, tắt bếp rồi đổ hỗn hợp kẹo Mè Xửng ra khuôn có sẵn rồi phủ mè lên trên. Cuối cùng để kẹo Mè Xửng khô lại rồi dùng dao hoặc kéo cắt thành từng miếng vuông nhỏ và bọc kín vào túi nilon. Vậy là đã hoàn thành một món đặc sản mà từ người già đến người trẻ, người giàu đến người bình dân đều dùng vào trong những mâm cỗ, đĩa bánh tiếp khách.

Ngày nay, cách làm Mè Xửng cũng đã được máy móc, thiết bị hỗ trợ, giúp rút ngắn khoảng thời gian làm và tăng năng suất. Riêng công đoạn cán mỏng phần kẹp trên nong tre phủ mè vẫn được thực hiện bằng tay để Mè Xửng dàn đều vừa phải và không dính. Để có một miếng kẹo mềm, dẻo, không bị cháy, ăn vào miệng dai dai ngọt ngọt là cả một nghệ thuật. Mè Xửng chất lượng là loại được nấu đến độ trong vắt, hạn sử dụng lên đến 3 tháng mà không hỏng.

Có nhiều loại Mè Xửng như Mè Xửng dẻo, Mè Xửng đen, Mè Xửng gương. Mè Xửng dẻo thì dẻo đến mức chúng ta có thể bẻ, cuộn, kéo nó rất dễ dàng. Mè Xửng gương thì mỏng như miếng bánh tráng, có thể nhìn xuyên thấu qua bánh vì nó trong suốt. Còn Mè Xửng đen thì được chế biến toàn bộ từ mè đen ăn rất bùi và bổ. 

Với những ai đã từng ăn kẹo Mè Xửng thì chắc chắn không thể quên được hương vị thơm ngon của nó. Kẹo vừa dẻo, vừa thơm mùi đậu phộng, mùi mè không thể lẫn vào đâu được. Nhưng cách thưởng thức kẹo Mè Xửng ngon đúng điệu là nhâm nhi với tách trà ướp sen pha bằng những hạt sương sớm trên lá sen. Người dân xứ Huế thường thưởng thức Mè Xửng như vậy. Họ thưởng thức Mè Xửng với nước trà nóng, vừa ăn nhâm nhi, cuộc sống cứ thế bình yên trôi qua. Đây là một nét đẹp rất thú vị trong văn hóa Huế, và chỉ ở Huế bạn mới có thể cảm nhận điều đó một cách trọn vẹn nhất. Chính nét đẹp tinh tế, dịu dàng này mà Huế có thể chinh phục không biết bao nhiêu con người.

Cũng bởi vậy mà, hầu hết khách du lịch khi đến mảnh đất Cố đô đều phải tìm mua cho bằng được đặc sản này để thưởng thức và mang về làm quà. Hình như nền ẩm thực Huế sẽ nhợt nhạt đi rất nhiều nếu thiếu đi món Mè Xửng này thì phải? Ai cũng đều nói vậy. Kẹo Mè Xửng tưởng chừng như đơn giản như bao món kẹo khác, những thật ra lại có một sức quyến rũ khó cưỡng.

Thưởng thức Mè Xửng cũng là thú vui tao nhã của bao người, một nghệ thuật ẩm thực cần phải kiên nhẫn của sự tinh tế trong lòng, không thể nôn nóng, không hề vội vã… Bạn sẽ cảm nhận hết những tinh hoa chứa đựng trong những miếng kẹo đầy ẩn ý này. Ngày mưa ngày nắng, bỗng một vài hôm không nhìn thấy kẹo Mè Xửng, tự dưng thấy lòng thương thương nhớ nhớ. Rồi phải chờ phải đợi tới khi ai đó đi xa về… quà quê càng thắm đượm hơn thêm cũng từ chính sự lâng lâng níu kéo miên man khó tả của Mè Xửng thơm lừng.

Nhắc về Huế, điều đầu tiên người ta nghĩ đến là nơi tụ hội của tinh hoa văn hóa, truyền thống và ẩm thực xứ Huế. Nhớ đến Huế và hãy thử ăn Mè Xửng để thưởng thức cái vị đặc biệt của nó và cảm nhận một chất Huế rất riêng nhé!

Read More

Lễ Thượng Tiêu ở xứ Huế mang đậm màu sắc cổ truyền của người dân Việt Nam

Post By: Loan Kim May 22, 2021 0 Comment(s) Huế

Nếu đã trót phải lòng những nét đẹp kiến trúc Cố đô Huế, thì Lễ Thượng Tiêu (23/12 âm lịch hàng năm) sẽ là một lễ hội hoàn hảo dành cho bạn khi đặt chân đến với mảnh đất này. Lễ Thượng Tiêu (hay Lễ Dựng Nêu) bắt nguồn từ thời Nguyễn. Lễ mang đậm màu sắc cổ truyền của người dân Việt Nam.

Tục lễ dựng Nêu ngày Tết là một trong những phong tục văn hóa không chỉ của riêng Việt Nam mà của rất nhiều nước Á Đông. Tuy nhiên, đối với người Việt Nam, sự ảnh hưởng này đã trở thành một nét văn hóa tốt đẹp ngàn đời. Đây là hoạt động nhằm tái hiện nghi lễ xưa của dân tộc Việt Nam nói chung, triều đình nhà Nguyễn nói riêng, tạo không khí vui tươi vào dịp mở đầu Tết Nguyên Đán.

Từ cửa Hiển Nhơn, nghi thức rước nêu (cây tre già dài 15m) được tổ chức trang trọng. 10 lính vệ vác nêu cùng đội nghi thức và ban lễ nhạc cung đình trong trang phục chỉnh tề. Đội rước nêu khởi hành trong âm thanh của tiểu nhạc tiến vào Hoàng Cung, đến Triệu Tổ Miếu (nơi thờ các vị vua triều Nguyễn), cửa chính của khu vực Thế Miếu và tiến hành nghi thức dựng nêu. 

Nét đặc biệt của lễ dựng nêu tại Hoàng Cung Huế là luôn gắn liền với đại nhạc, tiểu nhạc và các nghi lễ rất trang trọng như như nghinh thần, khánh hạ. Sau phần lễ, 10 lính vác nêu đã tiến hành dựng nêu lên. Khi cây nêu được dựng lên, đầu ngọn nêu được treo ấn, tín, văn phòng tư bảo, biểu trưng của việc phong ấn để triều đình nghỉ ngơi trong những ngày Tết.

Khách du lịch trong nước và người nước ngoài đến Cố đô Huế trong dịp này hết sức thích thú và ấn tượng với lễ dựng cây nêu, một nét đẹp văn hóa trong cung triều Nguyễn.

Dưới thời Nguyễn, tục dựng nêu được tổ chức bài bản, đúng vào ngày đưa ông Táo như đánh dấu mốc cho việc tạm ngừng các công việc trong năm để đón tết. Về tâm linh, dân gian tin rằng cây nêu có tác dụng xua đuổi, trừ yểm ma quỷ, những điều xấu của năm cũ, chuẩn bị cho một năm mới an lành. Lễ hạ nêu sẽ được tiến hành vào mùng 7 tết.

Lễ Thượng Tiêu đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo cho xứ Huế. Cố đô Huế “hội tụ” nhiều văn hóa lễ hội đặc sắc đang chờ du khách khám phá./.

Read More

Đến Huế, bạn sẽ bị mê hoặc bởi món Bánh Khoái ngon chuẩn vị

Post By: Loan Kim May 14, 2021 0 Comment(s) Huế

Bằng vẻ đẹp thơ mộng, giản dị, xứ Huế luôn mang trên mình nét kiêu sa cuốn hút lạ kì. Không chỉ làm say đắm lòng người bởi không gian văn hóa, truyền thống Huế còn tạo nên một thứ tình cảm thiết tha với du khách bởi những món ăn dân dã, tinh tế, chẳng hạn như món Bánh Khoái.

Bánh Khoái là một món bánh chiên đặc biệt của người dân Cố đô Huế. Về nguồn gốc, hiện nay, chưa có một tài liệu nào ghi chép lại thời gian ra đời chính xác của Bánh Khoái, chỉ biết rằng nó đã có mặt rất lâu đời trên đất Huế, có thể lên đến gần 100 năm. Nguồn gốc tên gọi của Bánh Khoái cho đến bây giờ vẫn còn là điều gây tranh cãi và chưa có kết luận chính thức. Một số người cho rằng, sở dĩ bánh có tên là “Bánh Khoái” vì khi người ta cho bột bánh vào chảo dầu để rán thì sẽ bốc lên làn khói nghi ngút, cách phát âm từ “khói” và “khoái” gần giống nhau nên mới có cái tên đặc biệt như vậy. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người lại giải thích theo hương vị của món bánh, nghĩa là khi ăn cảm thấy “khoái khẩu”, ngon miệng nên từ đó bánh có tên là “Bánh Khoái”.

Bánh Khoái có cách thực hiện khá giống với món bánh xèo Nam Bộ nhưng dạng bánh lại khác nhau hoàn toàn. Bánh Khoái có hình tròn theo dạng khuôn đổ, bánh được làm từ thành phần chính đó là bột gạo, có nhân ở trên, bánh thường được ăn kèm với rau sống và nước chấm.

Không quá khó để làm ra một chiếc Bánh Khoái, tuy nhiên làm cách nào để bánh ngon và giòn mới là điều quan trọng. Hai yếu tố cốt lõi tạo nên độ ngon của bánh chính là: công thức bột và lửa. Bột phải được pha theo tỉ lệ nhất định sao cho không đặc mà cũng không loãng. Bánh được làm từ bột gạo loại ngon nhất có pha thêm một ít bột năng tạo độ sánh. Bột được rây kỹ rồi mang hòa với nước, thêm chút muối để tạo thành một hỗn hợp sền sệt. Để bánh thơm, nhiều dinh dưỡng và có màu vàng bắt mắt hơn thì người ta thường cho thêm một ít lòng đỏ trứng gà vào bột. 

Để làm nhân bánh, người làm sẽ chuẩn bị một ít tôm sông bóc vỏ, thịt heo ba chỉ, nấm hương. Các nguyên liệu này sẽ mang đi tẩm ướp gia vị như muối, tiêu… rồi xào sơ qua trước khi cho vào bánh. Bên cạnh đó, người ta sẽ chuẩn bị thêm một ít giá sống, trứng chim cút luộc và chả lụa (món ăn làm từ thịt nạc heo giã nhuyễn, gói trong lá chuối rồi mang luộc chín). 

Khuôn đổ Bánh Khoái là một chiếc chảo bằng gang, đường kính khoảng 15cm, dày 2-3cm. Người ta đặt chảo lên bếp lửa, đợi nóng khuôn rồi cho dầu ăn vào. Khi dầu ăn sôi, bột bánh sẽ được đổ vào rồi cho hỗn hợp nhân gồm tôm, thịt, chả lên bánh. Chảo bánh sẽ được đậy nắp tầm 5-10 phút cho bánh chín, đạt đủ độ giòn, vỏ cháy xém cạnh thì sẽ rải thêm một ít giá sống vào giữa rồi tráng thêm trên lớp bột một lớp lòng đỏ trứng gà. Khi chiên bánh, người làm phải tỉ mỉ canh chừng độ nóng của lửa, canh thời gian đổ bánh vừa đủ sao cho bánh đạt đủ độ giòn cần thiết. Cuối cùng, người ta gập bánh làm đôi rồi lật mặt bánh cho chín giòn mới xếp ra đĩa.

Bánh Khoái ngon hay không còn phụ thuộc vào nước chấm ăn kèm. Người Huế làm nước chấm này khá cầu kì. Nước chấm được nấu từ hơn 10 loại gia vị, có thành phần đặc biệt là gan heo và thịt nạc xay nhuyễn cùng với các gia vị là hành, tỏi, mè rang, đậu phộng, tương đậu nành, nước ruốc, bột ngọt,… Nước chấm được nấu nhỏ lửa cho đến khi nào sánh lại và có màu vàng nhạt là được.

Bánh Khoái thường ăn kèm với rau sống bao gồm xà lách, cải non, diếp cá, chuối xanh thái mỏng, khế chua, ớt đỏ, rau thơm, vả,… Bạn có thể thưởng thức bánh trực tiếp hoặc cuộn trong bánh tráng (bánh làm từ bột gạo tráng mỏng, phơi khô). Nếu ăn kèm bánh tráng thì đầu tiên, bạn cho ít rau sống vào bánh tráng, tiếp đến là xếp chiếc bánh khoái còn nóng hổi lên. Bạn cuốn bánh tráng tròn nhẹ nhàng nhưng chắc tay để chiếc bánh tạo thành một cuộn hình ống gọn gàng.

Chiếc Bánh Khoái thơm lừng, vàng rụm khi chấm vào nước tương thì vô cùng kích thích vị giác. Mùi thơm của trứng, vị béo của thịt, tôm, vị ngọt của nước tương hòa quyện cùng vị chua, the, bùi của các loại rau sống sẽ khiến bạn bị mê hoặc. 

Là một món ăn đặc trưng của vùng đất Cố đô, Bánh Khoái được tìm thấy ở hầu khắp các con đường của phố Huế mộng mơ.

Người ta ví những người nấu ăn ngon là một nghệ nhân. Phải nhìn cách các bà các mẹ canh lửa, đổ bột vào chảo đều tay, trở bánh và canh thời gian cho bánh vừa chín giòn thì mới thật nể phục, tâm phục cái danh xưng ấy dành cho học ái tâm của họ đặt vào món ăn.

Về với Huế, người ta không ngại ngần sà ngay vào một hàng quán ở chợ Đông Ba để thưởng ngay món ăn giản dị bình dân này. Một chiếc Bánh Khoái nóng hổi vàng giòn, ăn rồi cứ thòm thèm, ăn no mà vẫn muốn ăn nữa. Nét tinh tế của ẩm thực Huế chính là món ăn dù dầu mỡ nhưng vẫn làm người ta đam mê, không ngán, không nhợn. Về Huế ngay đi, có hàng bánh khoái đợi chờ…

Read More

Nhớ mãi hương vị độc đáo của món Cơm Hến ở xứ Huế

Post By: Loan Kim May 14, 2021 0 Comment(s) Huế

Ẩm thực Huế nổi tiếng từ lâu đời, kể cả ẩm thực cung đình lẫn ẩm thực dân gian. Các món ăn ở đây được tạo ra từ chính sản vật của địa phương, gần gũi và dễ tìm. Nhờ sự khéo léo và sáng tạo, người Huế đã tạo nên nhiều món ăn ngon, có hương vị đặc trưng xứ Huế, điển hình là món Cơm hến.

Nhắc đến Huế, không chỉ ngọt thơm bát bún bò, không chỉ lê la phố xá để thưởng thức các loại bánh lá, hay ghé chợ Đông Ba để ăn bát bún thịt nướng và mua tôm chua về làm quà mà còn phải thưởng thức món Cơm hến. Bởi vậy mới nói đến Huế không được thưởng thức Cơm hến là một sự thiếu sót.

Mỗi khi nhắc đến Huế, lại nhớ đến những câu văn của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng viết: “Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người máu cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon!”; đi xa nhớ lại thèm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!”.

Cơm hến là món cơm ăn với hến, nghe qua cũng giống như cơm bò (cơm ăn với bò), cơm gà (cơm ăn với gà)… Thậm chí, cơm hến còn mộc mạc hơn nhiều so với những món cơm này. Bởi vì, nguyên liệu làm ra món này rất đơn giản, chỉ là cơm nguội và hến xào. Dù chỉ là một món ăn bình dân nhưng Cơm hến đã được nâng lên hàng đặc sản Huế bởi hương vị thơm ngon, độc đáo.

Có ai đó đã từng nói rằng: “Cơm hến là một hành trình đi từ cái mộc mạc, dân dã đến sự cao quý, sang trọng”. Trước đây món này được xem như món cơm ăn qua bữa của người dân nghèo. Nhưng giờ đây món ăn này được trân trọng và nâng níu dâng tận đến cung đình.

Món ăn bình dị nhưng chứa đựng sự khéo léo, tỉ mỉ và công phu của người chế biến. Hai vị chủ đạo được chăm chút nhất của món ăn này là thịt hến và nước hến. Hến được sử dụng phải được bắt tại Cồn Hến. Nước sông Hương khi chảy qua cồn Hến thường trong vắt, ít phù sa và phèn. Đáy sông dưới chân cồn được phủ bởi một lớp bùn sâu, rất thích hợp cho sự sinh trưởng của con hến. Nhờ điều kiện thủy văn thuận lợi, con hến ở đây ngon đến nỗi được xếp vào hàng thực phẩm tiến cung cho vua chúa xưa. Ngày nay, người dân nơi đây vẫn tranh thủ cào hến từ lúc chạng vạng, rồi rửa qua cho sạch bùn và chuyển về các lò. Hến sẽ được ngâm trong nước vo gạo để nhả hết chất bẩn trong bụng. Sau đó cho vào nồi luộc để lấy 2 nguyên liệu quan trọng là phần thịt (ruột hến) và nước luộc. Sau đó, phần thịt sẽ được xào nhanh với miến gạo, măng khô xé nhỏ và thịt ba chỉ thái mỏng. Nước luộc hến lại được đun nóng, xắt vài miếng gừng và nêm nếm gia vị cho vừa ăn. Và một điểm đặc biệt của món ăn là cơm phải là cơm nguội để qua đêm, các hạt cơm phải rời nhau.

Ăn kèm với Cơm hến không thể thiếu: mè rang, đậu phộng nguyên hạt rang dầu, da heo chiên phồng, hành phi, tóp mỡ, mắm ruốc, ớt tươi và tỏi giã nhuyễn, ớt tương…. Cũng không thể thiếu các loại  rau: thân chuối, hoa chuối thái mỏng, dọc mùng, rau thơm, dứa và khế xắt nhỏ. Vị chát, chua, tê, hăng, mát của rau sống sẽ làm cho hương vị của tô cơm hến thêm thơm ngon và đậm đà.

Khi ăn, thực khách trộn trều tất cả các nguyên liệu với nhau rồi chan nước luộc hến lên xâm xấp để thưởng thức hoặc ăn kiểu khô (ăn riêng cơm và nước luộc hến nóng hổi). Tất cả các vị mặn, ngọt, cay, chua, bùi, giòn và tươi mát trong một tô cơm hến sẽ khiến bạn “say lòng”!

Cốt cách của người Huế đâu đó phảng phất trong những tô cơm hến thân thương. Cơm hến được ví như bức tranh “âm dương ngũ hành”, bốn mùa đều có cái ngon riêng. Nên nếu có đến Huế, đừng ngại ngần gì mà không thưởng thức ngay món cơm Hến vô cùng thơm ngon này. Loan Kim Homestay mong bạn có những trải nghiệm thú vị./.

Read More

Lễ hội Cầu Ngư, nét đẹp trong văn hóa tâm linh xứ Huế

Post By: Loan Kim May 9, 2021 0 Comment(s) Huế

Lênh đênh sông nước, đầm phá, những người “bám đuôi con cá” trên Phá Tam Giang xứ Huế sống dựa hoàn toàn vào thiên nhiên, nhưng trong đời sống họ vẫn bảo tồn những nét văn hoá dân gian đặc sắc mà Lễ hội Cầu Ngư là một ví dụ điển hình.

Lễ hội Cầu Ngư được diễn ra thường niên vào đầu tháng Giêng, tại sân đình làng Thái Dương thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang. Lễ hội được tổ chức để dân làng tưởng nhớ vị khai canh Trương Quý Công đã thành lập làng, và dạy nghề đánh cá, nên lễ hội tổ chức đúng vào ngày mất của ông, 12 tháng Giêng âm lịch.

Theo truyền thống cứ 3 năm một lần, thì tổ chức long trọng nhất (Từ ngày 10-12 tháng Giêng năm Đinh Dậu này sẽ đáo lệ, đúng dịp tổ chức Lễ hội Cầu Ngư như truyền thống). Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, từ mùng 10 tháng Giêng đến 12 tháng Giêng âm lịch. Cả 3 ngày dân làng tắt bếp, tổ chức ăn cơm chung (theo đơn vị thôn).

Ngày mùng 10 thanh niên tổ chức các trò chơi thi bơi, chèo thuyền thúng, kéo dây, nhảy bao bố, nấu cơm thi… Ban đêm làng mời các đoàn hát bội, ca Huế về biểu diễn phục vụ nhân dân. Ngày 11, từ 5h sáng bắt đầu cúng tế ở đình làng và am miếu.

Rạng sáng ngày 12 tháng Giêng (0h30), địa phương sẽ làm lễ chính cầu an, tưởng niệm các vị tiền nhân tại đình làng. Tất cả các chủ thuyền mặc áo dài đen, quần trắng, đầu chít khăn đỏ chỉnh tề lần lượt vào làm lễ. Trước lúc vào lễ chánh tế, các bô lão trong làng thắp hương cầu khấn đất trời phù hộ cho con em làng chài sức khỏe, ra khơi gặp sóng yên, bể lặng… Các nhà trong làng đều đặt bàn hương án bày đồ lễ cúng. Trên mỗi tàu, thuyền tại lễ hội đều chăng đèn kết hoa.

Sáng sớm ngày 12 âm lịch, lễ chánh tế sẽ bắt đầu vào lúc 4h. Một bài văn tế dâng lên các vị thần linh và tiền bối của làng, cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, đánh bắt được mùa, dân làng no ấm, mọi người hạnh phúc. Khoảng 5h sáng lễ chánh tế kết thúc. Sau khi cắt băng khánh thành công trình trùng tu Đình làng vào lúc 6h30, Lễ cầu ngư chính thức bắt đầu vào lúc 7h. Sau phần nghi lễ là phần khai hội diễn trò “cầu ngư” ngay trước sân đình, gồm các tiết mục như đẩy thuyền ra khơi, câu cá, bủa lưới, mua bán thủy, hải sản…

Mở màn, một bô lão đại diện dân làng thắp hương cầu nguyện năm mới “sóng yên biển lặng”, làm ăn thịnh vượng, sau đó đánh 3 hồi trống đại. Vừa dứt tiếng trống, một vị trung niên mặc lễ phục màu đỏ đi kèm có hai thuyền trưởng tàu đánh cá đầu bịt khăn đỏ, mặc trang phục dân chài lưới, làm bộ điệu khôi hài gây náo nhiệt. Trống lệnh lại gióng lên báo hiệu trò chơi bủa lưới. Một vị cao tuổi ném tiền và quà bánh xuống sân đình cho trẻ em nhặt, các em (đều là học sinh) đã được hóa trang thành cá, mực, tôm…

Trong lúc cá, mực, tôm, cua (bọn trẻ) chạy nhảy thì các trai tráng lực lưỡng khiêng một chiếc thuyền bằng tre trang hoàng màu sắc rực rỡ, trên ghe có người tung lưới bắt đám trẻ. Tiếng trống lại vang lên báo hiệu trò chơi “ruỗi bộ” (“ruỗi” – phương ngữ Huế chỉ việc mua bán cá) bắt đầu, các chủ thuyền chọn vài con cá (đứa trẻ xinh xắn) đến trước bàn thờ làm lễ. Số trẻ (đóng vai cá tôm) còn lại được ngồi vào thúng lớn, để hàng chục phụ nữ gánh xuống bến trước đình làng rửa tay chân sạch sẽ, rồi chạy ra chợ bán, họ cũng làm bộ điệu mua bán, lấy tiền như thật. Màn mua bán kéo dài khoảng hơn một giờ.

 

Tiếp theo là những trò diễn trên cạn cùng hội đua ghe truyền thống và đoàn tàu xuất quân đánh bắt vụ nam, vụ cá đầu năm của ngư dân vùng biển.

Chương trình ngày hội được tiếp tục bằng cuộc đua trải trên phá Tam Giang. Cuộc đua mang ý nghĩa cầu cho no ấm, vừa được mùa cá, vừa được mùa lúa, thoả mãn ước vọng no ấm của cư dân.

Lễ hội Cầu Ngư là ngày hội của cả cộng đồng, tràn đầy lạc quan và hi vọng. Lễ hội là nguồn cổ vũ cho cư dân có thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn trong nghề sông nước. Có từ hàng trăm năm trước, lễ hội Cầu Ngư được các nhà nghiên cứu văn hóa đánh giá là một trong những lễ hội quy mô, độc đáo và hấp dẫn của xứ Huế./.

Read More
  • 1
  • 2
  • Next

Contact info

  • Address: 11/61 Le Minh Street An Dong Ward, Hue City, Vietnam
  • Phone: (+84) 913 479 171
  • Email: loankimhomestay@gmail.com
  • TDP-2
  • TDP-17
  • TDP-18
  • TDP-19
  • TDP-32
  • TDP-42
  • TDP-45
  • TDP-46
  • TDP-47
  • LK-coffee
  • lk-st
  • PrivateRoom-2

©2021 Loan Kim Homestay All Rights Reserved.

©2022 WordPress Theme SW Kingplace. All Rights Reserved. Designed by WPThemeGo.Com.

X
x
Login in or create account

Or
  • Menu
  • Home
  • Room
  • Visit Hue
  • About Us
  • Contact Us
  • English
    • Vietnamese