Không náo nhiệt, ồn ào như nhiều lễ hội ở khắp nơi trên đất nước, xứ Huế vẫn giữ riêng cho mình những lễ hội dân gian truyền thống thu hút đông đảo du khách về tham dự. Một trong những số đó là “Lễ tế Xã Tắc”.
Đàn Xã Tắc được xây dựng và cuối mùa xuân năm 1806, sau khi vua Gia Long quy hoạch lại toàn bộ Kinh thành trên đất của 8 làng ở bờ sông Hương. Đây là một trong những di tích cung đình đặc biệt quan trọng của Cố đô Huế. Dưới thời nhà Nguyễn, được xếp cùng hàng với đàn Nam Giao và Ngũ miếu trong Hoàng thành (Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Phụng Tiên Miếu), công trình này là một trong những “Miếu Đàn” trọng yếu của triều đình và hoàng gia.
Đàn ở phía Tây Hoàng Thành, đúng theo nguyên tắc “Mô Tổ, Chủ Xã” (bên trái nhà thờ Tổ, bên phải xã Tắc) của thành trì phương Đông. “Xã” là vị thần quan trọng nhất trong 5 vị thần, “Tắc” là lúa – quý nhất trong ngũ cốc. Vì là thờ Đất và Lúa nên đất để xây dựng Đàn xã tắc toàn bộ, định, trấn trong toàn quốc theo lệnh vua, phải đóng góp đất sạch để đắp đàn. Như vậy, đàn Xã Tắc tượng trưng cho đất đai cả Tổ quốc, nghĩa của đàn Xã Tắc vì thế càng thêm linh thiêng.
Đàn Xã Tắc được đắp lộ thiên, bao gồm hai tầng, hình vuông, mặt nhìn về hướng bắc. Tầng trên cao 1,60m, cạnh dài 28m, mặt nền tô 5 màu theo nguyên tắc của ngũ hành: giữa màu vàng, đông màu xanh, tây màu trắng, nam màu đỏ, bắc màu đen. Trên nền còn đặt 32 bệ đá để cắm tàn. Tầng dưới cao 1,20m, cạnh dài 70m, nền trước lát gạch, hai bên có tấm nền để tàn.
Tại Đàn Xã Tắc sẽ có đồ thờ, hương án, vật phẩm, lính canh, quan văn tứ phẩm, quan võ lục phẩm, chấp sự, bồi dưỡng … Theo Kinh Lễ thì Đàn Xã Tắc được xây dựng phải có nền ” Xã “để tế. Hai tầng nền của đàn Xã Tắc tọa lạc trên một khu đất rộng, vuông vức, xung quanh có tường đá bao bọc. Nam có bình phong, ở ba bên Đông, Tây, Nam có cửa nhỏ, riêng ở phía bắc (mặt trước) thì dựng cửa tam quan. Trong vườn cây trồng nhiều thông tin và mai, hai bên đường từ bên dưới đường dẫn ra cổng tam quan trồng hai hàng cây mù nền. Vì vậy mà dân gian Huế có câu: “Văn thánh trồng thông / Võ thánh trồng / Ngó vô xã Tắc hai hàng mù u” . Trước cửa tam quan, phía Bắc có con đường ngăn cách với hồ Xã Tắc. Hồ rộng, hình vuông, cạnh 57m, nước trong xanh trong bóng đàn Xã Tắc xuống mặt hồ.
Ngày nay, Đàn Xã Tắc không chỉ là một trong những lịch sử được khách hàng tìm đến tham quan, mà ở đây có một hoạt động văn hóa lễ hội vô cùng độc đáo đó chính là “lễ tế Xã Tắc”. Lễ tế Đàn Xã Tắc được tổ chức mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu, xếp vào hàng Đại tự, chỉ đứng sau lễ tế Nam Giao. Hầu như tất cả các vị vua Nguyễn đều từng chủ trì lễ tế quan trọng. Theo quy định của triều Nguyễn, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, nhà vua đích thân làm lễ tế Đàn Xã Tắc, những năm còn lại các quan đại thần thay nhau thực hiện công việc này.
Lễ hội đã được tổ chức trước ngày tế lễ 1 ngày. Trước khi tế lễ, các con đường từ Đại Nội đến Đàn Xã Tắc phải được quét dọn sạch sẽ. Trước đó, từ nhà vua đến văn võ bá quan, mọi người tham gia vào lễ tế Xã Tắc cũng phải giới hạn, chạy tịnh tiến để giữ mình trong sạch.
Vào sáng sớm của ngày tế Xã Tắc, cờ ở Kỳ Đài kéo lên, hiển thị vị trí chuẩn, kết xuất phát từ điện Cần Chánh ra cửa Đại Cung Môn. Bảy súng lệnh phát ở Kỳ Đài nổ vang. Đoàn Ngưng giá ra khỏi cửa môn rẽ hướng, rồi qua hướng bắc, đến đàn tế.
Lễ tế xã tắc được diễn ra với các công thức: Lễ Quán tẩy (Lễ tẩy trần), Lễ Thượng hương (Lễ dâng hương), Lễ Nghinh thần (Lễ thần tham dự), Lễ Điện ngọc bạch (Lễ ngọc trắng ), Lễ Truyền chúc (Lễ đọc chúc văn), Lễ hiến tặng (Lễ rượu), Lễ Tứ phúc phần (Lễ hưởng lộc), Triệt soạn (Lễ hạ), Tống thần (Lễ trao tặng thần), Tư chúc bạch soạn (Lễ thiêu văn, ngọc lụa, bài vị).
Để chuẩn bị cho lễ tế Xã Tắc, Bộ Lễ phải chỉnh sửa sang, bày biện đầy đủ lễ vật, đồ thờ và hương án. Hôm nay chính lễ, hai bên đường Ngọ Môn có các đội quân và cờ quạt uy lực, đèn thâu đêm sáng. Trên hương án ở đàn tế, ngoài các trượng thứ và đồ thờ thường có thêm lễ tam sinh gồm ba con vật: trâu, dê, lợn. Đặc biệt, có đội quân hơn 700 người tham gia lễ với đầy đủ các bảo vệ nghi thức, quan văn võ, binh lính, đội nghi trượng, đội nhã nhạc, vũ công Bát dật, với, ngựa, chuông trống, Võng lọng, cờ quạt… khởi động đoàn ngự đến đàn Xã Tắc. Sau đó đoàn ngẫu nhiên tiến hành cử hành lễ trong không khí trang nghiêm và linh hồn.
Trước bàn thờ lớn, nhà vua đội mũ dài, mặc áo hoàng bào, đeo đai ngọc, thân làm chủ tế. Sau lưng nhà vua, văn võ bá đạo chỉnh tề, hàng ngũ đường ngắn, nét mặt trang nghiêm, kính cẩn thận đầu hành lễ.
Hội diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm với nhiều nghi thức thành kính. Ngay sau lễ tế chính thức, khi vua hồi cung, dân chúng mới được đưa lên đàn hương cầu cho mưa gió hòa, mùa bội thu, đời không ấm.
Với nhiều lễ hội truyền thống khác, Lễ tế Xã Tắc cũng đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo cho xứ Huế. Cố đô Huế “hội tụ” nhiều văn hóa lễ hội đặc sắc đang chờ du khách khám phá./.