Loan Kim Homestay
  • Trang Chủ
  • PHÒNG
  • TIN TỨC
  • GIỚI THIỆU
  • LIÊN HỆ
  • English
    • Vietnamese

About blog

about
Lorem Ipsum is simply dummy text of the printing and typesetting industry. Lorem Ipsum has been the industry’s standard dummy text ever since the 1500s,

Categories

  • Blog (31)
  • Uncategorized (1)

Popular Tag

Huế hội vật làng sình điện hòn chén

Archives

  • Tháng Sáu 2021 (6)
  • Tháng Năm 2021 (12)
  • Tháng Tư 2021 (11)
  • Tháng Ba 2021 (3)

Monthly Archives: Tháng Tư 2021

Lễ tế Xã Tắc, một nghi lễ truyền thống của mảnh đất Cố đô Huế

Post By: Loan Kim Tháng Tư 26, 2021 0 Comment(s) Huế

Không náo nhiệt, ồn ào như nhiều lễ hội ở khắp nơi trên đất nước, xứ Huế vẫn giữ riêng cho mình những lễ hội dân gian truyền thống thu hút đông đảo du khách về tham dự. Một trong những số đó là “Lễ tế Xã Tắc”.

Đàn Xã Tắc được xây dựng và cuối mùa xuân năm 1806, sau khi vua Gia Long quy hoạch lại toàn bộ Kinh thành trên đất của 8 làng ở bờ sông Hương. Đây là một trong những di tích cung đình đặc biệt quan trọng của Cố đô Huế. Dưới thời nhà Nguyễn, được xếp cùng hàng với đàn Nam Giao và Ngũ miếu trong Hoàng thành (Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Phụng Tiên Miếu), công trình này là một trong những “Miếu Đàn” trọng yếu của triều đình và hoàng gia.

Đàn  ở phía Tây Hoàng Thành, đúng theo nguyên tắc “Mô Tổ, Chủ Xã” (bên trái nhà thờ Tổ, bên phải xã Tắc) của thành trì phương Đông. “Xã” là vị thần quan trọng nhất trong 5 vị thần, “Tắc” là lúa – quý nhất trong ngũ cốc. Vì là thờ Đất và Lúa nên đất để xây dựng Đàn xã tắc toàn bộ, định, trấn trong toàn quốc theo lệnh vua, phải đóng góp đất sạch để đắp đàn. Như vậy, đàn Xã Tắc tượng trưng cho đất đai cả Tổ quốc, nghĩa của đàn Xã Tắc vì thế càng thêm linh thiêng.

Đàn Xã Tắc được đắp lộ thiên, bao gồm hai tầng, hình vuông, mặt nhìn về hướng bắc. Tầng trên cao 1,60m, cạnh dài 28m, mặt nền tô 5 màu theo nguyên tắc của ngũ hành: giữa màu vàng, đông màu xanh, tây màu trắng, nam màu đỏ, bắc màu đen. Trên nền còn đặt 32 bệ đá để cắm tàn. Tầng dưới cao 1,20m, cạnh dài 70m, nền trước lát gạch, hai bên có tấm nền để tàn. 

Tại Đàn Xã Tắc sẽ có đồ thờ, hương án, vật phẩm, lính canh, quan văn tứ phẩm, quan võ lục phẩm, chấp sự, bồi dưỡng … Theo Kinh Lễ thì Đàn Xã Tắc được xây dựng phải có nền ” Xã “để tế. Hai tầng nền của đàn Xã Tắc tọa lạc trên một khu đất rộng, vuông vức, xung quanh có tường đá bao bọc. Nam có bình phong, ở ba bên Đông, Tây, Nam có cửa nhỏ, riêng ở phía bắc (mặt trước) thì dựng cửa tam quan. Trong vườn cây trồng nhiều thông tin và mai, hai bên đường từ bên dưới đường dẫn ra cổng tam quan trồng hai hàng cây mù nền. Vì vậy mà dân gian Huế có câu: “Văn thánh trồng thông / Võ thánh trồng / Ngó vô xã Tắc hai hàng mù u” . Trước cửa tam quan, phía Bắc có con đường ngăn cách với hồ Xã Tắc. Hồ rộng, hình vuông, cạnh 57m, nước trong xanh trong bóng đàn Xã Tắc xuống mặt hồ.

Ngày nay, Đàn Xã Tắc không chỉ là một trong những lịch sử được khách hàng tìm đến tham quan, mà ở đây có một hoạt động văn hóa lễ hội vô cùng độc đáo đó chính là “lễ tế Xã Tắc”. Lễ tế Đàn Xã Tắc được tổ chức mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu, xếp vào hàng Đại tự, chỉ đứng sau lễ tế Nam Giao. Hầu như tất cả các vị vua Nguyễn đều từng chủ trì lễ tế quan trọng. Theo quy định của triều Nguyễn, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, nhà vua đích thân làm lễ tế Đàn Xã Tắc, những năm còn lại các quan đại thần thay nhau thực hiện công việc này.

Lễ hội đã được tổ chức trước ngày tế lễ 1 ngày. Trước khi tế lễ, các con đường từ Đại Nội đến Đàn Xã Tắc phải được quét dọn sạch sẽ. Trước đó, từ nhà vua đến văn võ bá quan, mọi người tham gia vào lễ tế Xã Tắc cũng phải giới hạn, chạy tịnh tiến để giữ mình trong sạch.

Vào sáng sớm của ngày tế Xã Tắc, cờ ở Kỳ Đài kéo lên, hiển thị vị trí chuẩn, kết xuất phát từ điện Cần Chánh ra cửa Đại Cung Môn. Bảy súng lệnh phát ở Kỳ Đài nổ vang. Đoàn Ngưng giá ra khỏi cửa môn rẽ hướng, rồi qua hướng bắc, đến đàn tế.

Lễ tế xã tắc được diễn ra với các công thức: Lễ Quán tẩy (Lễ tẩy trần), Lễ Thượng hương (Lễ dâng hương), Lễ Nghinh thần (Lễ thần tham dự), Lễ Điện ngọc bạch (Lễ ngọc trắng ), Lễ Truyền chúc (Lễ đọc chúc văn), Lễ hiến tặng (Lễ rượu), Lễ Tứ phúc phần (Lễ hưởng lộc), Triệt soạn (Lễ hạ), Tống thần (Lễ trao tặng thần), Tư chúc bạch soạn (Lễ thiêu văn, ngọc lụa, bài vị).

Để chuẩn bị cho lễ tế Xã Tắc, Bộ Lễ phải chỉnh sửa sang, bày biện đầy đủ lễ vật, đồ thờ và hương án. Hôm nay chính lễ, hai bên đường Ngọ Môn có các đội quân và cờ quạt uy lực, đèn thâu đêm sáng. Trên hương án ở đàn tế, ngoài các trượng thứ và đồ thờ thường có thêm lễ tam sinh gồm ba con vật: trâu, dê, lợn. Đặc biệt, có đội quân hơn 700 người tham gia lễ với đầy đủ các bảo vệ nghi thức, quan văn võ, binh lính, đội nghi trượng, đội nhã nhạc, vũ công Bát dật, với, ngựa, chuông trống, Võng lọng, cờ quạt… khởi động đoàn ngự đến đàn Xã Tắc. Sau đó đoàn ngẫu nhiên tiến hành cử hành lễ trong không khí trang nghiêm và linh hồn.

Trước bàn thờ lớn, nhà vua đội mũ dài, mặc áo hoàng bào, đeo đai ngọc, thân làm chủ tế. Sau lưng nhà vua, văn võ bá đạo chỉnh tề, hàng ngũ đường ngắn, nét mặt trang nghiêm, kính cẩn thận đầu hành lễ.

Hội diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm với nhiều nghi thức thành kính. Ngay sau lễ tế chính thức, khi vua hồi cung, dân chúng mới được đưa lên đàn hương cầu cho mưa gió hòa, mùa bội thu, đời không ấm.

Với nhiều lễ hội truyền thống khác, Lễ tế Xã Tắc cũng đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo cho xứ Huế. Cố đô Huế “hội tụ” nhiều văn hóa lễ hội đặc sắc đang chờ du khách khám phá./.

Chi Tiết

Về xứ Huế, chớ bỏ qua đặc sản trứ danh Mắm Sò

Post By: Loan Kim Tháng Tư 26, 2021 0 Comment(s) Huế

Vùng biển Lăng Cô vốn nổi tiếng với nhiều hải sản tươi sống như tôm, cua, sò lông, sò huyết, vẹm, hàu,… Trong số đó, sò là loại rất được ưa chuộng và thường được đem làm mắm, gọi là Mắm sò. Có thể nói đây là một trong những đặc sản trứ danh của mảnh đất Cố đô Huế.

Mắm sò được chế biến từ con sò lông, hay người địa phương vẫn thường gọi là “con sặc”.  Sò lông thường bị nhầm lẫn với sò huyết vì hình dáng khá giống nhau. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ, bạn sẽ thấy sò lông lớn hơn sò huyết. Sò lông có hai mảnh vỏ hình bầu dục, da có vỏ màu nâu phát triển thành lông.

Loại hải sản này hầu như có mặt quanh năm, chỉ trừ những thời điểm mưa gió vào tháng 9 – 10 khi mà nước dâng cao không thể đi bắt được, còn lại người dân đi cào quanh năm. Đến mùa cào sò, chỉ cần một cái bàn cào nhỏ, thêm một cái lồng là có thể ra biển để cào. Công đoạn cào sò cũng không hề đơn giản, cần phải thực sự kiên nhẫn ngâm mình hàng giờ dưới nước mới có được sò để làm mắm.

Không giống với mắm cá, mắm tôm, mắm sò lại có hương vị rất đặc biệt, bởi nó được người dân Huế chế biến với bí quyết riêng của mình. Sò sau khi được cậy vỏ lấy thịt, đem rửa thật kỹ cho sạch các bên trong. Để sò không bị nở to, khiến cho mắm sò bị hỏng thì sò được rửa rất nhanh rồi vớt lên. Sau đó, để ra rổ cho ráo nước chừng 1 tiếng. Sau khi đã ráo nước thì cho vào thau nhựa, cho muối sống đã được giã mịn rồi, cứ tỉ lệ 10 chén sò thì cho 2 chén muối. Để mắm sò ngon thì phải cân đo đong đếm làm sao để mắm đừng quá mặn, cũng đừng quá nhạt. Cuối cùng, trộn thật đều tay thau sò cùng với ớt, riềng rồi cho vào hũ thủy tinh hoặc thau nhựa đậy kín nắp. Bảo quản mắm sò trong vòng 8-10 ngày là có thể lấy ra thưởng thức. Đặc biệt, mắm sò để càng lâu thì ăn càng ngon, mà hầu như loại mắm nào cũng vậy chứ không riêng gì mắm sò.

Mắm sò múc ra có màu đỏ au, trông rất bắt mắt. Đặc biệt, mắm đặc sệt, còn nguyên ruột sò. Khi ăn, người ta cho thêm các gia vị như đường, bột ngọt, tỏi, ớt băm nhỏ hoặc cho thêm ít đu đủ bào. 

Để cảm nhận vị ngon đúng chuẩn của mắm sò thì phải ăn kèm với đúng nguyên liệu thì mới tăng độ hấp dẫn được. Mắm sò muối lên rất thơm, ăn với cơm nóng là ngon nhất. Ngoài ăn với cơm nóng, người ta còn dùng mắm sò như một loại nước chấm giống như mắm tôm, mắm ruốc, xì dầu chẳng hạn. Mắm sò ăn với cơm nóng đã ngon, ăn cùng rau sống, khế chua, chuối chát, dưa giá kẹp thịt ba chỉ lại càng ngon hơn. Khi kết hợp tất cả các nguyên liệu này lại với nhau, bạn sẽ cảm nhận được vị mặn của mắm, vị chua của khế và vị béo của thịt ba chỉ hòa quyện. Thật là khó cưỡng lại được!

Mắm sò dù không quá đặc sắc nhưng lại là món ăn đọng vào lòng người. Cái hương vị của mắm sò đọng lại trong khoang miệng, vị mặn mặn của mắm, vị dai ngon của sò, vị chua chua ngot ngọt tạo ra vị hài hòa đánh thức vị giác ngay từ lần đầu tiên.

Cùng với món tôm chua, mắm ruốc, mắm sò là đặc sản của đất Cố đô. Khi bạn đặt chân đến Huế thế nào cũng được mời thưởng thức. Chắc chắn đây là món ăn lạ miệng, ngon và bổ, ăn mãi không nhàm, dùng trong bữa ăn hằng ngày hay trong các đám tiệc, hoặc dùng làm quà biếu đều có giá trị./.

Chi Tiết

Khám phá Tục thờ ngựa độc đáo của xứ Huế

Post By: Loan Kim Tháng Tư 22, 2021 0 Comment(s) Huế

Hình tượng Ngựa xuất hiện từ rất lâu đời trong văn hoá Việt Nam nói chung và văn hoá xứ Huế nói riêng. Con ngựa là một trong những loài vật được con người thuần hoá và sử dụng trong đời sống hàng ngày. Ngựa là con vật thông minh, khôn ngoan, nhanh nhẹn cho nên nó được chọn là con vật kề vai sát cánh cùng con người xông pha trận mạc.

Trong tâm thức

Con ngựa là một con vật đặc biệt, tham gia vào biểu tượng song nghĩa, đa nghĩa. Từ chỗ là bản thể của vô thức tâm linh, là bản năng của dục vọng sâu thẳm hay cõi mịt mù của bóng tối, ngựa đã vượt lên theo từng nấc thang để thụ pháp và chuyển thể thành con vật biểu tượng của thần linh, ánh sáng của mặt trời và cũng là biểu tượng của nhân cách và trí tuệ.

Tục thờ ngựa của người dân xứ Huế

Có thể nói trên cả nước ta hiếm có địa phương nào thờ con ngựa như ở xứ Huế. Có đến gần 100% dân số ở Huế lập am, miếu để thờ, từ trong nhà ra đến sân, trong số các am miếu phổ biến nhất là miếu thờ các cô, cậu, ông chiêm thành, ông quận, ở đó họ đều có thờ con ngựa – con vật linh thiêng, gồm ngựa đá, ngựa giấy và ngựa gỗ; màu sắc chủ yếu đỏ và trắng tượng trưng cho một vị thần.

Trong dân gian thường quan niệm, âm dương nhất lý (tức lúc sống thế nào, chết cũng như vậy), họ quan niệm khi các vị thánh còn sống dùng ngựa để xuất quân ra trận, dẹp loạn đem lại bình yên cho đất nước nên khi chết có lẽ dưới âm dương hoặc trên trời cao vẫn thế các vị thần dùng ngựa để đi lại, đi chầu, hoặc giảng đạo…

Theo đó, ngựa đỏ dùng cho cho tôn ông ngự giá, chu du, hành đạo (6 tôn ông: gồm ngài đệ nhất, đệ nhị, đệ tam giám sát, đệ tam thủy phủ, đệ ngũ, đệ nhị ngoại), còn ngựa trắng là để thờ các cậu ngoại càng.

Trong tứ phủ đền thần, 2 loại ngựa này được thờ để tôn ông đi chầu. Và khi làm ngựa để thờ, người thợ làm ngựa phải hiểu rõ nguyên lý hoạt động cũng như ngựa dùng ở cõi nào, ví dụ ở “cõi thượng thiên” (cõi trên trời) thì phải làm khác với ngựa thờ ở am miếu “cõi trung thiên” (cõi trần gian). Do tôn ông ngự giá ở cõi thượng thiên nên khi làm ngựa thờ ngựa đó phải có cánh, vì ở cõi trời nên ngựa có cánh dùng để bay, còn ở cõi trung thiên thì làm ngựa như ngựa ra chiến trận bình thường, có yên ngựa, dây cương, đao kiếm để ra trận…

Người dân Huế quan niệm, ở trên trời cao, giữa dân gian và âm phủ các đức thánh cũng dùng ngựa để đi chầu, đi hành đạo nên khi họ đặt am miếu thờ cúng phải thờ ngựa thể hiện lòng thành kính của mình đối với các vị thần thánh của đất nước, những vị thánh đã có công mở mang bờ cõi, giữ vững bình yên cho đất nước. Cho nên, các am, cảnh, miếu ở Huế, người dân thờ ngựa đá là như thế.

Ngày nay, khi dâng cúng ngựa cho các cõi, người ta thường làm con ngựa to nhất bằng màu đỏ để dâng cúng cho tôn ông và những con ngựa nhỏ bằng màu trắng để cúng cho các cậu ngoại càng.

Cứ mỗi dịp xuân đến, Tết về người dân Huế lại tất bật chuẩn bị chu đáo trang hoàng nhà cửa, trong số những vật dụng như chúng ta thường thấy là vàng mã, áo binh, giấy tiền vàng bạc tiền, xe hơi,… thỏi vàng thì không thể thiếu hình ảnh những con ngựa giấy được làm giống y như thật để đốt trong dịp cuối năm, trong đêm giao thừa đầu năm mới.

Hình ảnh Ngựa chiếm một vị trí rất đặc biệt trong am miếu, đền đài, lăng mộ

Chính vì việc trân trọng thờ ngựa như thờ một trong những con vật linh thiêng ở Huế nên ngựa cũng chiếm một vị trí rất đặc biệt trong am miếu, đền đài, lăng mộ… Ví như ở đền thờ Hưng Đạo Đại Vương ở 399 đường Chi Lăng, cặp ngựa đá được làm y như ngựa thật, màu đỏ, được đặt trang trọng trước đền, hai con đối xứng nhau trong tư thế sẵn sàng bất cứ lúc nào ngài xuất quân, còn ngựa trắng được người dân Huế thờ phổ biến nhất ở các am miếu ngoài trời.

Đặc biệt, khi vào tham quan lăng mộ các vua nhà Nguyễn ở Huế, khách du lịch cũng thường bắt gặp hình tượng con ngựa luôn xuất hiện hoành tráng tại nơi chốn linh thiêng này.

Con ngựa có mặt trong 6 khu lăng của các vua nhà Nguyễn, từ lăng Gia Long xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 19 tới lăng Khải Định xây vào thập niên 20 của thế kỷ trước, trừ lăng vua Dục Đức. Do tuân thủ những nguyên tắc chung khi kiến tạo sơn lăng cho các bậc đế vương, lăng các vị vua nhà Nguyễn luôn có bi đình và bái đình. Bi đình là nhà bia, nơi dựng tấm bia ca ngợi công đức của chủ khu lăng tẩm, còn bái đình là sân chầu dành cho các vị vua kế nhiệm và đình thần văn võ đến bái lạy trong các dịp húy nhật, lễ kỵ. Đó cũng là nơi ngựa góp mặt. Mỗi bái đình đều có hai tượng viên văn võ và voi ngựa chầu hầu, trong đó ngựa đứng vào bậc ba, sau văn quan, võ quan và trên những ông tượng.

Tuy nhiên, không phải ngựa ở lăng nào cũng có cách thể hiện và chất liệu giống nhau mà tùy theo thời thế. Con ngựa trong các lăng vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Khải Định được tạc bằng đá thanh, ngựa trong lăng vua Tự Đức được làm bằng vôi và vữa ô dước, nhưng ngựa trong lăng Đồng Khánh lại được đúc bằng xi măng. Còn vóc dáng cũng hoàn toàn khác: Nếu con ngựa trong lăng Gia Long có dáng vóc rắn rỏi, kiêu dũng thì ngựa trong lăng Minh Mạng lại to mập, uy nghi và đường bệ, ngựa trong lăng Tự Đức thì thấp lùn, lại được những bàn tay vụng về của lớp thợ nề hậu sinh tu chỉnh trong các lần tu bổ di tích nên đã biến con vật gần gũi này giống… lừa hơn. Trong khi đó, ngựa trong lăng Đồng Khánh cao gầy và có vẻ yểu tướng, phải chăng cho phù hợp với số mệnh của chủ lăng, vốn là một ông vua vắn số yểu mệnh, băng hà khi mới 25 tuổi. Chỉ có ngựa trong lăng Thiệu Trị mới xứng đáng là ngựa của vua, vóc dáng thanh thoát, tràn đầy sinh lực và được chạm trổ tinh tế, hoàn mỹ.

Vì là biểu tượng của thiên tử, nên Ngựa còn xuất hiện trên Cửu đỉnh nơi Thế Tổ Miếu và trong Khải Thành Điện của lăng vua Khải Định.

Là người uyên bác Nho học và rất yêu thích thơ ca, vua Thiệu Trị đã cho minh họa trong những bài thơ ngự chế của mình hình ảnh “con ngựa nhâm nha gặm cỏ, chờ các bậc vương tôn công tử đang mải chuyện với các giai nhân dưới những rặng liễu ven hồ” đầy lãng mạn, để vua treo trong Hòa Khiêm Điện và Long An Điện.

Không chỉ hiện diện ở nơi linh thiêng lăng mộ các vua nhà Nguyễn hay tranh mà cả trên đồ sứ ký kiểu, con ngựa cũng có mặt khá hoành tráng: Những chiếc bát sứ, những chiếc đĩa bàn trong bộ trà ký kiểu triều Tự Đức, hiệu đề: Tự Đức niên chế, Nhật hay Ngoạn ngọc, với các đồ án: liễu mã, mã đáo thành công, bát mã hay ngựa qua cầu.

Còn đằng sau câu dân gian nổi tiếng ở Huế: “Mê gì như mê tổ tôm. Mê ngựa Thượng Tứ, mê nôm Thúy Kiều” lại là điển tích hay khác về ngựa ở cửa Thượng Tứ, sau việc ngựa xuất hiện ở lăng các vua nhà Nguyễn, thì nơi đất thần kinh còn nhiều bí mật hấp dẫn và mê hoặc tiếp tục được “giải mã”…

Văn hóa Huế cũng như những phong tục tín ngưỡng là một trong những điểm nhấn hấp dẫn không thể bỏ qua trong hành trình du lịch của bạn. Một Huế thơ mộng, đáng yêu như vậy là nơi mà tất cả du khách yêu thích sự yên bình muốn đặt chân./.

Chi Tiết

Đặc sắc Festival Nghề truyền thống Huế 2021

Post By: Loan Kim Tháng Tư 22, 2021 0 Comment(s) Huế

Festival Nghề truyền thống Huế là một sự kiện văn hóa – xã hội – du lịch, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của thành phố Huế. Qua các kỳ Festival nghề truyền thống, những hình ảnh đẹp về văn hóa Huế, con người Huế, tinh hoa các nghề truyền thống Huế… đã được giới thiệu đến với du khách trong nước và quốc tế.

Song song với Festival Huế vào các năm chẵn, Festival Nghề truyền thống Huế được tổ chức xen kẽ vào các năm lẻ đã 7 lần và trở thành một sản phẩm du lịch đặc trưng của xứ Huế. Mặc dù cấp độ tổ chức chỉ là UBND TP. Huế, nhưng tầm vóc của Festival này thì vượt ra khỏi biên giới của địa phương, từng bước khẳng định vị thế của một lễ hội hàng đầu và mang tính đặc trưng trong cả nước, thậm chí lan tỏa quốc tế…

Trong năm 2021, Festival Nghề truyền thống Huế sẽ được diễn ra diễn ra từ ngày 29/5 đến 26/6 với chủ đề “Tinh hoa nghề Việt”. Không gian tổ chức là khu vực đường đi bộ hai bên bờ sông Hương và trục không gian văn hóa, nghệ thuật đường Lê Lợi, thành phố Huế. Ngoài ra, trong thời gian tới, thành phố Huế cũng sẽ khai trương tuyến phố đi bộ ở bờ Bắc sông Hương khu vực quanh Hoàng Thành…

Năm nay, lễ hội Festival này sẽ diễn ra trong gần 1 tháng với nhiều điểm khác biệt hơn, hứa hẹn sẽ đặc sắc và hấp dẫn cho người dân và khách du lịch gần xa. Sẽ có 16 nhóm nghề tham dự, gồm: Thêu, Kim hoàn, Mộc mỹ nghệ, Đồng, Gốm, Nón lá, Hoa giấy, Thư pháp, Tranh, Diều, Dệt – May, Mây tre, Pháp lam, Nhang trầm, Tinh dầu, Lân – Sư – Rồng, các sản phẩm có thương hiệu và truyền thống lâu đời, với sự tham gia của 62 làng nghề, cơ sở nghề và trên 350 nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú, “bàn tay vàng” trong cả nước.

Đặc biệt, có nhiều hoạt động, sự kiện đặc sắc, hấp dẫn như: Thi thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống, trại điêu khắc, Festival áo dài, Liên hoan kèn đồng, giải chạy Marathon Huế, Hòa nhạc thế kỷ, Hội chợ triển lãm sách và triển lãm tác phẩm điêu khắc, Đêm nhạc “Nhớ Trịnh Công Sơn”, Lễ hội ẩm thực Huế, đua thuyền trên sông Hương, Lễ hội Nghề truyền thống Huế, Triển lãm thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống, Đêm nhạc Trịnh, trình diễn bài chòi, Liên hoan sắc màu tuổi thơ, Đại nhạc hội rap, Liên hoan ca Huế…

Ngoài ra, Hội sách tại Festival Nghề truyền thống Huế 2021 dự kiến diễn ra ở phố đi bộ phía Nam sông Hương, sử dụng toàn bộ không gian tổ chức làng nghề để tổ chức Hội sách với khoảng 20 gian hàng. Có 4 hoạt động chính trong Hội sách Festival Nghề truyền thống 2021, gồm: Triển lãm Sách quý; tọa đàm giới thiệu tác giả, tác phẩm; hoạt động bên lề Hội sách (Triển lãm tranh, biểu diễn Piano, giao lưu các ban nhạc). Kết thúc Hội sách, Alpha Books sẽ để lại một số sách để trưng bày nhằm phát triển Văn hóa đọc tại thành phố Huế và lưu trữ giá trị sách quý.
Huế là một trong những vùng di sản rất đặc trưng, trong khu vực miền Trung có con đường di sản nối giữa Quảng Bình – Huế – Quảng Nam, thông qua Festival lần này chúng ta có thể kết nối du khách trong một lần đi đến 3 vùng di sản, qua đó giới thiệu hành trình tour du lịch di sản giới thiệu Huế và các địa bàn đặc trưng du lịch…

Festival Nghề truyền thống Huế 2021 sẽ hướng đến một lễ hội quy mô, có chất lượng, hiệu quả, tầm cỡ quốc gia và mang tầm quốc tế, góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh du lịch – văn hóa Huế qua đó lôi kéo du khách đến Huế nhiều hơn, phát huy thương hiệu và vị thế của Huế – thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam, đồng thời góp phần tích cực, có hiệu quả việc khôi phục, hỗ trợ và phát triển làng nghề truyền thống và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tiêu biểu trên cả nước, nhất là mong muốn tạo điều kiện các nghệ nhân có lợi nhuận, cung ứng nhiều sản phẩm cho thị trường…

Chi Tiết

Hát Chầu văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu tại mảnh đất Cố đô Huế

Post By: Loan Kim Tháng Tư 22, 2021 0 Comment(s) Huế

Cố đô Huế, mảnh đất thần kinh, nơi chứa đựng nhiều giá trị văn hóa lịch sử của vương triều nhà Nguyễn. Bên cạnh Nhã nhạc Cung đình, Ca Huế thì còn tồn tại một loại hình mà ít người biết tới đó là “Hát Chầu văn” trong tính ngưỡng thờ Mẫu.

Từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XX, thời kỳ nhà Nguyễn (1802-1945), Huế là Kinh đô của cả nước đã kết tinh, hội tụ nhiều sắc thái văn hóa trong đó âm nhạc thấy khá rõ nét. Ngoài những làn điệu như hò, vè , lý, nhạc Cung đình, nhạc Nghi lễ thì hình thành một thể loại mới gọi là nhạc Chầu văn.

Nhạc Chầu văn chính là quá trình biến lời trên những bài văn chầu được cấu thành bởi những khổ thơ lục bát hoặc song thất lục bát thành nhạc điệu. Nội dung của nó diễn đạt sự tích ca ngợi các vị Thánh – Thần – Tiên được thờ trong điện, gắn liền với những truyền thuyết và câu chuyện dân gian.

Chầu văn Huế có đặc trưng riêng, trên cơ sở hệ thống thang âm cổ truyền (thang năm âm – ngũ cung) của vùng Bắc Trung bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Nhịp điệu cũng là một trong những yếu tố tạo nên tính chất đặc trưng của nó. Ở đây phổ biến là nhịp 2/4, ngoài ra còn có nhịp 3/7 nhưng ít khi sử dụng, nếu dùng thì ở trong bản văn thỉnh Hội đồng.

Ngoài việc sử dụng những làn điệu chính gốc như giọng Phú, Sắp, Thượng, Đài, Quảng, Cờn còn kết hợp những thể biến cách, kế thừa những làn điệu dân ca miền Bắc như Long lành, Trống quân, Ta lý, hát Thượng.

Dàn nhạc trong Chầu văn cơ bản gồm có đàn Nhị, đàn Nguyệt, đàn Bầu, sáo, bộ gõ có phách, trống, sau này bổ sung thêm đàn Ghitar phím nhún. Nhưng tùy theo điều kiện kinh tế mà có thể có nhiều hơn hoặc ít hơn. Đôi khi người ta chỉ cần 3 nhạc cụ, đàn Nguyệt, phách, trống là có thể hát trong buổi hầu đồng.

Chầu văn Huế với lối hát đơn, hát đôi, hát tập thể, có khi cả ban công văn (8 đến 10 người) cùng đứng hát và nhảy múa hát theo từng tính chất “giá hầu”.

Về môi trường diễn xướng, Hát Chầu văn là loại hát thờ, là lối hát trước bàn thờ Thánh (bao gồm cả lên đồng) gắn bó chặt chẽ với nghi lễ tín ngưỡng tại am, điện thờ Thánh Mẫu. Là loại văn để hầu bóng, gọi là văn ca thỉnh hàm (được thể hiện thành lời ca, hát), thỉnh mời các vị thần thánh giáng trần, hóa vào các con đồng để phán bảo (lên đồng là sự hóa thân vào một vai thần, thánh, hay ma quỷ linh thiêng trong hành lễ, tức là thần, thánh, ma quỷ đã nhập vào người ngồi đồng…).

Đặc điểm của hát Chầu văn là quá trình hành lễ gắn liền với hình thức sinh hoạt lên đồng, hầu bóng mà ở đó, con đồng sẽ hóa thân vào các vị thần linh để phán truyền, dạy bảo, chữa bệnh hay ban phát tài lộc cho những người tham gia buổi lễ. Trong suốt thời gian tiến hành nghi lễ lên đồng, hầu bóng, âm nhạc Chầu văn đóng vai trò quan trọng, có tính cách phù phép, với mục đích thôi miên người ngồi đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho con đồng nhập bóng, và giúp việc nhập hồn của các vị thần linh vào con đồng được linh ứng.

Là một hình thức diễn xướng dân gian khá nguyên sơ với tính sân khấu, có thể tách ra trình diễn, chọn một số GIÁ (liên khúc) của hầu bóng về diễn xuất để nhập vai. Cô Đôi Thượng ngàn, cậu Bơ… là những nhân vật trình diễn cho người xem những màn kịch múa, hái hoa, bắt bướm, chèo đò, múa dao, cưỡi ngựa… thật sinh động và hấp dẫn.

Hát Chầu văn Huế được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa vốn âm nhạc truyền thống của dân tộc để phục vụ cho mục đích tín ngưỡng của các tín đồ thờ Mẫu. Nó mang những giá trị văn hoá tinh thần rất sâu sắc, vừa thể hiện nhu cầu thẩm mỹ vừa thể hiện ước vọng tâm linh của con người trong cuộc sống. Vì vậy, âm nhạc Chầu văn Huế không chỉ là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng – văn hoá cộng đồng mà còn là một loại hình âm nhạc dân gian độc đáo cần được giữ gìn và phát huy trong đời sống hiện đại để làm phong phú thêm món ăn tinh thần cho người dân./.

Chi Tiết

Cúng đất - Lễ "Tạ thổ kỳ yên" độc đáo của người dân xứ Huế

Post By: Loan Kim Tháng Tư 21, 2021 0 Comment(s) Huế

Đã bao đời nay, dù đất nước thăng trầm qua nhiều biến cố chiến tranh, giặc giã, nhưng từ khắp làng mạc, xóm thôn đến chốn phố xá, thị thành đều có tục cúng đất. Với xứ Huế tâm linh thì cũng không là ngoại lệ.

Tương truyền, khi Công chúa Huyền Trân được gả cho vua Chế Mân của nước Chiêm Thành vào năm 1306, Đại Việt ta nhận được sính lễ từ vua Chăm là vùng đất 2 châu: Châu Ô, Châu Lý (Châu Rí). Tính theo ngày nay là vùng đất phía Nam tỉnh Quảng Bình cho đến phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Như vậy, cư dân ở vùng đất này vốn là cư dân của Vương quốc Chămpa, theo suy nghĩ của người Đại Việt lúc bấy giờ vùng đất này là vùng đất xa lạ, họ chưa quen thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình cho nên khi vào đây lập nghiệp họ mang trong mình sự tôn kính đối với người dân bản địa và các vị thần linh ở đây. Từ đó, họ có lệ cúng Đất như là việc mong thần linh và những linh hồn người bản địa từng cư ngụ ở đây phù hộ độ trì, chấp thuận cho sự có mặt làm ăn sinh sống của cư dân Đại Việt ta. Và cho đến ngày nay, vùng đất xứ Kinh kỳ đầy tâm linh này vẫn luôn giữ nét truyền thống ấy một cách đầy thành kính.

Cúng đất là dịp để gia đình, bạn bè họp mặt sau khi mùa vụ đã gặt hái xong. Tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng hàng xóm, láng giềng. Cúng đất còn là dịp để các bà, các chị thể hiện sự khéo léo, giỏi giang trổ tài nữ công gia chánh. Tục lệ cúng đất không nặng yếu tố mê tín dị đoan, mà thể hiện tấm lòng “uống nước nhớ nguồn”, tri ân, biết ơn tổ tiên.

Hàng năm, cứ 2 lần vào một ngày tốt trong tháng 2 và tháng 8 âm lịch, mỗi gia đình Huế lại làm lễ dâng cúng cho các vị thần thành hoàng, ngũ phương, ngũ hành, thần đất, thần nhà, thần tiên sư các nghề, thần vườn, thần quản lục súc, thần che chở của cải, thần phúc đức, chủ đất, kho đất, thần cây gỗ, thần đường sá, thần cai quản các loại ma, núi đồi đầm phá, thần bảo vệ đất, cha đất, con đất, cháu đất, cửa ngõ, chúa quỷ miệng lửa và lực sĩ mặt cháy.

Đặc biệt trong lễ cúng này, chủ nhà thành tâm kính mời linh hồn cô đơn các ma Chàm, ma Chợ, ma Mọi, ma Rợ, vì ốm đau đói khát mà chết; ma Lồi ma Lạc có tước vị mà không có tên, có tên mà không có tước vị cùng đến dự.

Một lễ cúng đất đầy đủ nhất có đến 3 bàn: bàn thượng, bàn trung và bàn hạ (bàn hội đồng). Ở bàn thượng chỉ có một con gà trống luộc, gồm huyết và lòng rắc muối hạt một con dao bằng tre, cùng một dĩa xôi trắng, phụ 5-6 chén chè; bàn trung gồm một con gà mái luộc đầy đủ lòng và huyết cũng rắc muối hạt đặt dao tre, một dĩa xôi trắng và một số chén chè. Tại bàn cúng này còn có 3 con cua bể, 3 quả trứng và 3 miếng thịt heo luộc đều có rắc muối sống. Ở bàn hạ bố trí một mâm cơm đầy đủ các thức ăn song phải có một dĩa ra tập tàng luộc (có thể thay bằng rau khoai) với nước mắm nêm, một gắp cá nướng, loại cá nhỏ và một khay khoai sắn luộc, một khay gạo sống muối sống, hột nổ ngũ sắc, đường đen, một nồi cháo trắng. Tất cả 3 bàn này đều có hoa quả, bát hương, cây đèn, ly nước, ly rượu, dĩa cau trầu. Ngoài ra còn có các loại vàng mã (đồ giấy), ở bàn thượng là một chiếc ngai có tàng, trên đặt mũ phương phát, một đôi hia, và một chiếc áo vẽ rồng có đai đeo. Ở bàn trung gồm trang phục của bà thổ, bà hỏa là 2 chiếc nón quai thao, 2 chiếc quần, 2 chiếc áo vẽ hình chim phụng, hai chiếc đãy cau trầu và hai chiếc quạt, năm bộ chủ Ngung Man Nương, gồm 5 chiếc nón chóp nhọn và 5 bộ áo quần, năm bộ Ngũ phương gồm 5 chiếc mũ, 5 đôi giày, 5 chiếc áo nhỏ, thập nhị Long Trạch gồm 12 chiếc áo đen. Ở bàn hạ, hội đồng, chỉ bày áo binh.

Ba bàn đặt trước nhà, gia chủ đứng từ trong nhà lạy ra. Khi gần xong lễ, gia chủ sẽ lấy bẹ chuối làm thành một chiếc túi đựng thức ăn, áo binh, giấy vàng bạc, treo ở cổng nhà hoặc ở góc vườn gọi là Xà Lẹc, dành cho những “người” qua đường. Vàng mã thì đốt đi, cháo thánh, gạo muối vãi lên trên khi lửa đốt sắp tàn.

Xong lễ, người Huế thường để lại cặp chân gà lễ để đem đi “xem giò” để gia chủ biết được cát – hung – họa – phúc trong năm của gia đình.

Tục cúng đất mang vẻ đẹp của văn hóa tâm linh, rất nhân văn. Vì thế dù hiện nay văn hóa truyền thống có nơi bị mai một nhưng xứ Huế vẫn lưu giữ tục lệ này. Đây là nét đẹp truyền thống của cha ông thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc trong việc tri ân “Ăn quả nhớ người trồng cây” đối với tiền nhân nơi mình sinh sống cũng như việc giữ gìn tinh thần đoàn kết, sự giao lưu văn hóa các vùng miền trong đại gia đình dân tộc Việt Nam./.

Chi Tiết

Lễ cúng bổn mạng đầu năm trong nét văn hóa độc đáo của Cố đô Huế

Post By: Loan Kim Tháng Tư 21, 2021 0 Comment(s) Huế

Có thể nói Cố đô Huế là một vùng đất nặng về đời sống tâm linh trong từng gia đình nên nghi lễ thờ cúng rất được xem trọng. Trong những nghi lễ ấy không thể không nhắc đến Lễ cúng bổn mạng đầu năm.

Theo truyền thống hàng năm, từ ngày mùng 4 – 16 tháng Giêng (tập trung nhiều nhất là tối mùng 8-9 tháng Giêng, vì đó là ngày “Tiên Sư giáng hạ”), người dân Huế thường tổ chức cúng bổn mạng đầu năm (thường gọi tắt là cúng đầu năm). Mục đích của lễ cúng bổn mạng là cầu cho thân mạng của người đàn ông hoặc đàn bà được vẹn toàn, thoát khỏi những “tai ương” và rủi ro trong cuộc sống thường nhật, ước nguyện gặp điều tốt lành trong năm.

Việc chuẩn bị lễ cúng Tiên Sư bổn mạng cũng được chuẩn bị tương tự như lễ cúng ông Công ông Táo và cúng gia tiên. Mâm cỗ cúng Tiên Sư bổn mạng bên cạnh cau trầu, rượu, xôi chè… tùy theo kinh tế mỗi gia đình có thể thêm đồ cúng mặn (xôi, gà, giò chả…), đồ cúng ngọt (hoa quả, bánh kẹo…), không thể thiếu tranh bổn mạng và bông đũa làm từ cây tre.

Tùy theo độ tuổi, giới tính của các thành viên trong gia đình như thế nào mà có tranh bổn mạng tương ứng.

Gia đình nào theo đạo Phật nghĩa là đã “gửi thân mạng” của mình cho Quan Âm Bồ Tát thì lễ bổn mạng gồm xôi chè, hoa quả, bánh kẹo và cặp bông tre. Ngoài 60 tuổi thì không còn phải làm lễ “cúng bổn mạng” nữa. Nếu gia đình không theo đạo Phật thì sau khi mua tranh bổn mạng về, gia chủ sẽ viết lên mỗi bức tranh câu: “Thế tai – Thế nạn – Thế bệnh – Thế hoạn – Thế mạng – Sanh nhân” kèm theo tên tuổi của từng thành viên tương ứng trên mỗi bức tranh.

Còn với bông đũa (hoa tre) thì được làm bằng tre tươi, sau đó cưa tre thành từng đoạn dài khoảng 20cm có hình tròn to bằng ngón tay cái, rồi dùng mác (rựa) thật bén để vót tre. Mác càng bén thì đường tre vót ra càng cong vút và sắc nét. Sau khi các cọng tre được vót ra đầy đặn thì dùng tay vo cho hoa tre được tròn trịa hơn, phía dưới vót nhọn để khi cúng cắm vào đĩa xôi gọn gàng. Hoa tre được nhuộm màu đỏ, màu gạch, màu cánh sen, màu vàng đậm để người mua tùy sở thích mà chọn lựa. Thông thường người mua chọn màu đỏ nhiều hơn vì người ta quan niệm rằng: đầu năm sẽ được gặp nhiều may mắn, cái gì cũng “đỏ” như bông hoa tre.

Việc hoa tre là một vật phẩm không thể thiếu trong lễ cúng bổn mạng bởi xuất phát từ ý nghĩa: Cây Tre là biểu tượng cho làng quê Việt, cho truyền thống dân tộc và cao hơn là tượng trưng cho sức sống dẻo dai, trường tồn và bất diệt của tinh thần đất nước; tre cũng là một loài cây có nhiều linh khí, thân cây tre cũng được dựng làm cây nêu trong ngày Tết nhằm xua đuổi tà ma. Hoa Tre là một loài hoa quý, mang ý nghĩa tinh tuý của trời đất, là kiệt tác của tạo hoá tự nhiên vì khi cây tre vươn tới 100 năm tuổi mới nở hoa.

Cùng với các nghi lễ đặc trưng như lễ cúng đất, lễ xuân tế,… lễ cúng bổn mạng đầu năm cũng góp phần tạo nên nét độc đáo trong văn hóa của mảnh đất Cố đô Huế./.

Chi Tiết

Lễ Apier, một nghi lễ nông nghiệp quan trọng của người Tà Ôi - Pa Cô ở Huế

Post By: Loan Kim Tháng Tư 21, 2021 0 Comment(s) Huế

Trong tín ngưỡng nông nghiệp đồng bào luôn thể hiện sự tôn thờ thần Núi, thần Sông và đặc biệt là thần Lúa để cầu mong cho mưa thuận gió hòa mùa màng bội thu. Chính vì lẽ đó, hàng năm đồng bào Tà Ôi – Pa Cô (tại huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế) thường tổ chức lễ Apier (gieo hạt) trước khi bà con trỉa lúa, gieo hạt trên nương.

Bởi họ quan niệm nếu không làm lễ cúng này thì thần Lúa sẽ không thức dậy mùa màng không tốt tươi, sẽ bị con sâu con mọt, phá hoại, vậy nên việc làm lễ cúng thần là một nghi lễ quan trọng trong văn hóa của người Tà Ôi – Pa Cô.

Trước khi diễn ra lễ Apier, trưởng làng sẽ họp làng lại và chọn ngày giờ tốt để chọn mảnh đất cho nghi lễ gieo hạt. Sau khi họp bàn và chuẩn bị đất xong, họ sẽ cùng nhau cải tạo mảnh đất đó thành những mảnh nhỏ để chuẩn bị cho nghi lễ gieo hạt. Khi đất đã được chọn lựa và cải tạo, đồng bào Tà Ôi – Pa Cô tiến hành một cây nêu tại khoảnh đất đó và chọn giờ làm lễ cúng.

Lễ vật dâng cúng trong lễ Apier bao gồm 1 con heo, 1 con gà, 1 ché rượu cần, gạo nếp, bánh, mía, 5 loại hạt giống (lúa, ngô, lạc, đậu, mè). Sau khi lễ vật chuẩn bị xong, họ sẽ thịt heo và dâng lên cho Yang phần đầu và thịt ngon nhất để thể hiện lòng thành, cùng với đó là máu tươi được lấy từ con heo. Theo nghi thức, gà được luộc chín đặt cạnh ché rượu cần đặt sẵn bên cột cây nêu cùng những chiếc bánh a quát. Đặc biệt vật dụng không thể thiếu được là các loại hạt giống đã được các gia đình chuẩn bị sẵn. Khi đến dự lễ, đồng bào Pa Cô – Tà Ôi thường chỉ cần mang theo hạt thóc giống mà không cần phải mang các loại hạt giống khác, bởi đồng bào quan niệm thần Lúa là đại diện cho tất cả các loại cây trồng. Lúa là lương thực chính nuôi sống con người.

Khi lễ vật đã được chuẩn bị xong, các gia đình đồng bào Tà Ôi – Pa Cô cùng ngồi quanh cây nêu thể hiện lòng thành kính, Trưởng làng thắp nén hương và bắt đầu lễ cúng trên nhà Rông: “Ơi Yang, hôm nay chúng con cùng tất cả những gia đình trong buôn có mặt tại đây báo cáo với Yang rằng, cho đến giờ phút này mùa vụ mới đã bắt đầu mong thần hãy thức dậy đừng ngủ nữa. Đã đến lúc chúng ta cùng nhau đi ra rẫy để chuẩn bị cho một mùa gieo hạt, trỉa lúa mới. Thần không còn thời gian để ngủ nữa đâu, hãy yêu mến con người, hãy yêu thương buôn làng, hãy chứng giám cho buôn làng bằng những lễ vật mà chúng con dâng cúng lên Yang, có gà, có rượu, có xôi, có bánh và có thịt… xin Yang hãy thức tỉnh để nảy mầm xanh tốt, lớn đều, lớn nhanh, hạt chắc, hạt đều… mang lại một mùa màng bội thu và ấm no cho cả buôn làng. Ơ Yang!”.
Sau khi lễ cúng trong nhà được hoàn tất, thầy cúng cùng toàn thể dân làng di chuyển ra mảnh đất đã chọn và tổ chức lễ cúng ngoài rẫy. Lễ vật dâng cúng bao gồm: gà, heo, rượu, bánh, mía và tiết heo tươi theo nghi thức.

Khi di chuyển ra đến mảnh rẫy đã lựa chọn, Trưởng làng lấy một chiếc chiêng la cho những hạt giống vào đó và đánh thức hạt giống bằng những tiếng chiêng – âm hưởng của núi rừng. Đồng bào Tà Ôi – Pa Cô quan niệm chỉ khi hạt giống được đánh thức thì mới có thể nảy mầm, lên đều và lên đẹp.

Cùng lúc đó, những gia đình có hạt giống đã được bỏ sẵn trong giỏ và đeo bên hông, họ đứng theo từng hàng trên những mảnh đất được chia sẵn cho từng loại hạt.

Lúc này, Trưởng làng bắt đầu đọc lời cúng các vị thần: “Ơi các vị thần đang ngự trị trên mảnh mương con suối của chúng con hãy xin thức dậy để chứng dám cho cho ngày hôm nay. Và giờ phút này thần lúa đã thức dậy để chuẩn bị cho một mùa gieo hạt mới. xin các vị thần hãy chứng dám cho buôn làng với các lễ vật như heo, gà, rượu, bánh và xôi… được dâng lên với tất cả mong muốn, mưa thuận gió hòa, thần lúa mọc lên xanh tốt, không bị con sâu con mối phá hoại cũng như các hạt giống sẽ lên đều, lên xanh, lên đẹp…”.

Kết thúc lời cúng của Trưởng làng, đồng bào cùng nhau bắt tay vào gieo tượng trưng những hạt giống trên vạt đất đã chọn. Những người đàn ông cầm gậy chọc lỗ, phụ nữ theo sau vừa tra hạt giống vừa hát, hát cho những hạt giống nảy mầm xanh tốt. Họ vừa gieo hạt vừa hát ru cho thần Lúa, mong thần hãy luôn yêu thương con người, quý mến buôn làng mà nhanh nảy mầm xanh tốt, xen lẫn những bài hát ru là những tiếng chiêng, trống rộn ràng báo hiệu một mùa vụ tốt tươi ở phía trước.

Hạt đã được gieo xong, đồng bào Tà Ôi – Pa Cô cùng nhau rào lại cẩn thận cho thửa rẫy đã được chọn và theo dõi chứng kiến kết quả. Lễ kết thúc mùa gieo hạt được tổ chức tại bến nước của làng. Những người phụ nữ đại diện cho các gia đình sẽ mang giỏ đựng thóc giống của gia đình mình xuống bến nước. Họ nhúng những chiếc giỏ này xuống nước, nhưng chỉ nhúng một nửa. Họ làm vậy để xin thổ địa giữ độ ẩm cho hạt giống nảy đều.

Xong lễ Apier của cả làng, các gia đình bắt đầu chọn ngày gieo cấy trên nương của mình. Không bắt buộc phải gieo vào ngày nào nhưng cũng không được quá chậm trễ, vì sẽ không theo kịp mùa vụ. Khoảng nửa tháng sau, trưởng làng sẽ tìm hiểu xem các gia đình đã trồng trỉa xong chưa, nếu đã xong, làng lại tổ chức một lễ nhỏ kết thúc mùa gieo hạt./.

Chi Tiết

Lễ hội Aza - một sắc màu văn hóa vùng cao A Lưới, Huế

Post By: Loan Kim Tháng Tư 18, 2021 0 Comment(s) Huế

Aza là tết cổ truyền của dân tộc Pa Cô nói riêng và các dân tộc Tà Ôi, Cơ Tu, Pahy nói chung. Đây là nét văn hóa tốt đẹp, độc đáo. Ngoài thể hiện lòng thành kính đến các vị thần linh, lễ hội Aza còn để khẳng định tình cảm gắn bó thiêng liêng của con cháu trong làng bản.

Lễ hội này diễn ra vào thời điểm cuối năm, khi mà đồng bào dân tộc vùng cao A Lưới kết thúc công việc nương rẫy cũng là lúc tiết trời se lạnh, trên các đỉnh núi, sương trắng bồng bềnh. Lúc này, người Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pahy háo hức chuẩn bị gạo nếp, thức ăn, trang phục để đón Mùa lễ hội Ycha Aza (lễ ăn cơm mới). Lồng ghép với lễ hội này là ngày hội đại đoàn kết dân tộc để thắt chặt tình đoàn kết thôn bản, cùng nhìn lại những gì đã làm được trong năm và cầu mong mùa màng bội thu trong năm mới.

Lễ hội Aza được tổ chức với mục đích cầu mong mùa màng tươi tốt, cầu thần linh phù hộ cho dân làng được sống yên vui, không ốm đau, bệnh tật. Giải quyết những bất hòa các họ tộc với nhau… Ngoài cúng thần nông nghiệp, đồng bào nơi đây còn cúng thần sông, thần núi, trời đất.

Tại lễ hội, ngoài những nghi thức cúng bái do già làng, trưởng họ đảm nhận còn có nhiều tiết mục dân ca, dân nhạc của đồng bào, tạo nên một sắc màu văn hóa vùng cao.

A Lưới là nơi có nhiều dân tộc như, Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pahy,… sinh sống nên lễ hội Aza ở mỗi dân tộc có những nét khác biệt. Nếu như người Tà Ôi, Cơ Tu chỉ tổ chức trong phạm vi họ hàng, gia đình thì dân tộc Pa Cô lại tổ chức với quy mô cấp làng và có hai loại Aza đó là: “Aza koonh” hay còn gọi là “Aza pựt” (quy mô lớn) và “Aza kâr loh ku mo” hay “Aza Kăn” (quy mô nhỏ). Sự khác biệt đó thể hiện tính phong phú, đa bản sắc văn hóa vùng dân tộc thiểu số.

“Aza koonh” không ấn định khoảng cách thời gian tổ chức. Năm nào cả làng được mùa lớn thì lễ hội này sẽ diễn ra vào tháng 1 âm lịch. Còn “Aza Kăn” thì được tổ chức hàng năm, diễn ra vào độ cuối tháng 11 đến tháng 12 âm lịch.

Dù là “Aza koonh” hay “Aza Kăn” cũng thực hiện các bước nghi lễ để hoàn thành lễ hội Aza. Trước khi bước vào nghi lễ chính là Ka coong tro (lễ mời mẹ lúa) phải thực hiện nghi lễ a xa a rah và cha chootq. Mời mẹ lúa là phần chính của phần lễ Aza, được đeo cho các trang sức quý, như cườm, hạt mã não… Trong nghi lễ này có các lễ cúng Aza (các vị giống cây trồng), lễ cúng giàng Xứ (giàng sông, suối, gió, mấy, núi, lửa…), lễ cúng giàng Kumuuiq (những người đã khuất), lễ cúng giàng Pa nuôn (vị thần chở che khi đi buôn bán), lễ cúng giàng Azel, lễ cúng giàng Cợt (vị thần ban tặng con người), lễ Cha ddoooi âr beh (lễ ăn cơm mới), lễ giao mâm cỗ.

Aza – lễ hội khi nhắc tên chắc hẳn nhiều người sẽ ấn tượng. Song, độ 2 thập kỷ trước, người dân đồng bào vùng cao A Lưới vì mải miết mưu sinh, ổn định cuộc sống nên bẵng quên sắc màu văn hóa này. Nhưng ngày nay, sau những nỗ lực của già làng, trưởng bản, thế hệ trẻ đã nhận thức được tầm quan trọng của lễ hội Aza. Dù khá giả hay khó khăn, năm nào các gia đình, làng bản lại rộn ràng với lễ hội Aza trong những ngày cuối năm. Đây không đơn thuần là lễ hội mà còn là dịp để người dân đồng bào phô diễn những nét văn hóa của mình. Ngoài những lời hỏi thăm, chúc tụng, bên ánh lửa bập bùng, họ cùng nhau hát hò, nhảy điệu múa aza, pon, ẹo và cùng đối đáp nhau bằng dân ca câr lơi, târ a, xiềng, cha chấp trong nhịp trống, tiếng chiêng, giai điệu pâr lư ấm áp tình người./.

Chi Tiết

Đến Cố Đô Huế, trải nghiệm trọn vẹn "Lễ hội Điện Hòn Chén"

Post By: Loan Kim Tháng Tư 15, 2021 0 Comment(s) điện hòn chén, Huế

Cố đô Huế không những được biết đến với các lăng tẩm cổ kính, các ngôi chùa hàng trăm năm, các ngôi làng đề thờ… mà nó còn biết đến với Điện Hòn Chén gắn liền với “Lễ hội Điện Hòn Chén” vô cùng nổi tiếng.

Điện Hòn Chén nằm trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà. Đây là nơi mà người Chăm thờ nữ thần Pô Nagar, sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà dưới xưng Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Chính vì vậy, người dân quen gọi là “điện thờ Thánh Mẫu”. Thiên Y A Na Thánh Mẫu, nguyên xưa là nữ thần của người Chăm có tên là Pô Yang Inô Nagar, gọi tắt là Pô Nagar, tức Thần Mẹ Xứ Sở, mà theo truyền thuyết Chăm là Thần đã sáng tạo ra đất đai, cây cối, rừng gỗ quý, lúa, bắp,… và dạy dân cách trồng trọt.

Hàng năm cứ mỗi độ vào dịp “xuân tế” và “thu tế” thì người dân thập phương lại tấp nập tìm về Điện Hòn Chén (hay Điện Huệ Nam) để trẩy hội: Lễ vía húy nhật Đức Vân Hương Thánh Mẫu vào ngày mùng 2-3 tháng 3 âm lịch và lễ thu tế vào hai ngày tốt trong thượng tuần tháng 7 âm lịch, dân gian quen gọi là “Tháng Bảy vía Cha, tháng Ba vía Mẹ”. Lễ hội này thu hút hàng nghìn tín đồ và du khách đến chiêm bái và thực hiện các nghi lễ hầu đồng, tạo nên những nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Huế.

Vào thời điểm lễ hội diễn ra, hàng trăm chiếc thuyền rồng và hàng ngàn du khách đến đây tham quan và cúng kính từ rất sớm, người dân địa phương họ mang lễ vật, hoa quả đến đây từ 3-4 giờ sáng, đến 5 giờ sáng là bắt đầu làm lễ ngày đầu tiên. Họ tập trung tại bến thuyền Tòa Khâm (Sông Hương) để có thể được tham gia lễ hội náo nhiệt như vậy. Cho nên du khách và người dân có thể nắm bắt giờ mà đến đây cúng kiến, cầu xin phước lành. Ý nghĩa đặc thù mang đậm tính chất tâm linh thần bí, ai bước chân đến đây cũng đều có một cảm giác lạ thường.

Điều ấn tượng nhất của lễ hội là đám rước Thánh Mẫu, được cử hành trên những chiếc “bằng” với đông đảo thiện nam tín nữ trong trang phục khăn chầu, áo ngự lộng lẫy, muôn màu, muôn vẻ trông như những ông hoàng, bà chúa đời Nguyễn. Đám rước đem theo bàn thờ Thánh cùng long kiệu Thánh Mẫu do các trinh nữ ăn mặc sặc sỡ khiêng, còn các bà, người mang bình hương, ống trầu, bình trà, hòm đựng đồ trang sức, kẻ mang cờ, biển, tàn, lọng, gối, quạt… Các thanh niên thì vác các đồ lễ bộ, bát bửu và các tự khí khác. Ðám rước đầy màu sắc rực rỡ, không khí trang nghiêm.

Tiếp đó là lễ tế Túc Yết, hát thờ, lên đồng hầu bóng diễn ra suốt cả đêm. Sáng hôm sau là ngày đại tế tại đình, buổi chiều các kiệu rước lại long trọng trở về Điện Hòn Chén. Kết thúc hội có lễ phóng sinh và thả đèn.

Nhờ những đặc sắc và ý nghĩa mang lại, Lễ hội Điện Hòn Chén còn được xem như một “Festival về văn hóa dân gian trên sông Hương”, thu hút hàng trăm chiếc thuyền ngược dòng Hương với đông đảo du khách đến từ nhiều tỉnh, thành trên cả nước tìm đến để cúng bái và cầu xin bình an, tiền tài, sức khỏe gia đình… Đồng thời, lễ hội truyền thống này đã đưa mọi người đến gần nhau hơn, góp phần làm cho văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc./.

Chi Tiết
  • 1
  • 2
  • Next

Thông Tin Liên Hệ

  • Địa chỉ: 11/61 Lê Minh, Phường An Đông, TP Huế, Việt Nam
  • Phone: (+84) 913 479 171
  • Email: loankimhomestay@gmail.com
  • TDP-2
  • TDP-17
  • TDP-18
  • TDP-19
  • TDP-32
  • TDP-42
  • TDP-45
  • TDP-46
  • TDP-47
  • LK-coffee
  • lk-st
  • PrivateRoom-2

©2021 Loan Kim Homestay All Rights Reserved.

©2025 WordPress Theme SW Kingplace. All Rights Reserved. Designed by WPThemeGo.Com.

X
x
Login in or create account

Or
  • Menu
  • Trang Chủ
  • PHÒNG
  • TIN TỨC
  • GIỚI THIỆU
  • LIÊN HỆ
  • English
    • Vietnamese